Bản án 06/2018/HNGĐ-ST ngày 04/04/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 06/2018/HNGĐ-ST NGÀY 04/04/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 04 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 198/2017/TLST-HNGĐ ngày 01/12/2017, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2018/QĐXX-ST ngày 01/3/2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Ngô Thị V; sinh năm: 1983; địa chỉ: Thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Hoàng Văn G; sinh năm: 1979; địa chỉ: Thôn C, xã Y, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 27/11/2017, cũng như lời khai tại Toà án, nguyên đơn chị Ngô Thị V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngô Thị V và anh Hoàng Văn G có được tìm hiểu yêu thương, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện H, tỉnh Lạng Sơn vào năm 2003. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị chung sống hạnh phúc, đến đầu năm 2005 vợ chồng bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh Hoàng Văn G không chịu tu chí làm ăn, thường xuyên đi chơi bời. Chị Ngô Thị V và gia đình hai bên đã cố gắng khuyên nhủ nhiều lần nhưng anh không nghe, còn về nhà gây sự, đánh đập chị Ngô Thị V, do không chịu đựng được nữa chị Ngô Thị V đã bỏ về bên nhà bố mẹ đẻ sinh sống từ năm 2012. Từ đó đến nay anh, chị sống ly thân, không còn quan tâm, chăm sóc đến nhau. Chị Ngô Thị V xác định không còn tình cảm với anh Hoàng Văn G do vậy xin được ly hôn.

Về con chung: Chị Ngô Thị V và anh Hoàng Văn G có 02 con chung là Hoàng Thảo L, sinh ngày: 13/02/2004 và Hoàng Minh P, sinh ngày: 15/3/2008. Hiện nay hai con đang ở cùng chị Ngô Thị V, khi ly hôn chị V xin được nuôi con, không yêu cầu anh G phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Hoàng Văn G cố tình vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần. Do không thể thỏa thuận, giải quyết được nội dung vụ án nên Tòa án đã tiến hành các thủ tục theo trình tự tố tụng vàđưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân tại phiên tòa trình bày:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chị Ngô Thị V đã chấp hành đúng quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án; bị đơn anh Hoàng Văn G vắng mặt tại phiên tòa do vậy anh Hoàng Văn G vi phạm khoản 11, 15, 16 Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về việc giải quyết vụ án:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Ngô Thị V về việc ly hôn với anh Hoàng Văn G.

+ Về con chung: Chị Ngô Thị V được quyền nuôi dưỡng và chăm sóc, giáo dục con chung là Hoàng Thảo L, sinh ngày 13/02/2004 và Hoàng Minh P, sinh ngày 15/3/2008 đến khi trưởng thành và anh Hoàng Văn G không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

+Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

Các tài liệu, chứng cứ trong vụ án gồm: Bản tự khai, biên bản lấy lời khai của chị Ngô Thị V, giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, giấy khai sinh bản sao của Hoàng Thảo L, Hoàng Minh P sổ hộ khẩu gia đình; biên bản lấy lời khai cháu Nguyễn Quỳnh C, biên bản xác minh anh Hoàng Văn G vắng mặt tại địa phương.

Các tình tiết của vụ án mà các bên thống nhất: Không có

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quyền khởi kiện: Chị Ngô Thị V và anh Hoàng Văn G quen biết nhau, sau một thời gian tìm hiểu, hai bên tự nguyên tiến tới hôn nhân và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán tại địa phương và có đăng ký kết hôn tại tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện H, tỉnh Lạng Sơn vào năm 2003

Do đó, chị Ngô Thị V có quyền yêu cầu ly hôn anh Hoàng Văn G theo quy định tại Điều 51 của Luật Hôn nhân gia đình và Điều 186 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Anh Hoàng Văn G là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh G không có mặt tại Tòa án. Căn cứ kết quả xác minh tại Ban Công an xã Y, thì anh đang sinh sống và cư trú tại thôn C, xã Y, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, hiện anh G không có mặt tại địa phương, Tòa án phối hợp với Công an xã Y, huyện H, tỉnh Lạng Sơn lập biên bản về việc không tống đạt được thông báo thụ lý vụ án cho đương sự, đồng thời giao thông báo thụ lý vụ án cho người thân thích của anh G và thực hiện các thủ tục niêm yết theo quy định của pháp luật.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Xét thấy theo như lời khai của nguyên đơn tại phiên tòa ngày hôm nay và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Về quan hệ hôn nhân:

Chị Ngô Thị V và anh Hoàng Văn G kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc hay bị lừa dối được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán. Đăng ký kết hôn tại tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện H, tỉnh Lạng Sơn.

Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do anh Hoàng Văn G không chịu tu chí làm ăn, thường xuyên đi chơi bời. Chị Ngô Thị V và gia đình hai bên đã cố gắng khuyên nhủ nhiều lần nhưng anh không nghe, còn về nhà gây sự, đánh đập chị Ngô Thị V do không chịu đựng được nữa chị Ngô Thị V đã bỏ về bên nhà bố mẹ đẻ sinh sống từ năm 2012. Hội đồng xét xử nhận thấy chị Ngô Thị V và anh Hoàng Văn G không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình, tình cảm vợ chồng giữa anh chị thực sự đã hết do vậy yêu cầu của chị Ngô Thị V xin ly hôn với anh Hoàng Văn G là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Về con chung: Chị Ngô Thị V và anh Hoàng Văn G có hai con chung là Hoàng Thảo L, sinh ngày 13/02/2004 và Hoàng Minh P, sinh ngày 15/3/2008. Hiện hai con đang ở cùng với chị V, khi ly hôn chị V xin được nuôi con, không yêu cầu anh G phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét thấy từ khi chị V và anh G ly thân cho đến nay chị V là người trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Hoàng Thảo L và Hoàng Minh P, chị V vẫn đảm bảo các điều kiện chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng tốt đối với các con. Hơn nữa tại biên bản lấy lời khai ngày 08/12/2017, khi Tòa án tiến hành lấy lời khai, cháu Hoàng Thảo L và Hoàng MinhP đều có nguyện vọng muốn được ở cùng với mẹ là chị V, do chị V có đủ điều kiện để chăm sóc các cháu. Căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm2014, có căn cứ để chấp nhận cho chị V được tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng 02 con chung là Hoàng Thảo L, sinh ngày 13/02/2004 và Hoàng Minh P, sinh ngày 15/3/2008. Anh G không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi hai con và có quyền đi lại thăm nom các con không ai được cản trở anh thực hiện quyền này.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Không có.

[6] Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Nguyên đơn chị Ngô Thị V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000,đ (ba trăm nghìn đồng).

[7] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28;  khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sửdụng án phí và lệ phí Tòa án .

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Ngô Thị Vvề việc xin ly hôn anh Hoàng Văn G được ly hôn.

2. Về con chung: Giao chị Ngô Thị V được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung là Hoàng Thảo L, sinh ngày 13/02/2004 và Hoàng Minh P, sinh ngày 15/3/2008 cho đến khi các con trưởng thành đủ 18 tuổi. Anh Hoàng Văn G không phải cấp dưỡng nuôi các con chung và có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở anh thực hiện quyền này.

3. Về tài sản chung: Không có.

4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí: Chị Ngô Thị V phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước. Xác nhận chị V đã nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2012/04593, ngày 28 tháng 11 năm 2017 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2018/HNGĐ-ST ngày 04/04/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:06/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về