Bản án 06/2018/DS-ST ngày 06/03/2018 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUYÊN HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 06/2018/DS-ST NGÀY 06/03/2018 VỀ LY HÔN

Trong ngày 06 tháng 3 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 93/2017/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2017 về việc “kiện xin ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2018/QĐXXST-DS ngày 24 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Thành T, sinh năm 1985

Địa chỉ: 136 KĐ, phường X, quận T, thành phố Đà Nẵng "có mặt"

Bị đơn: Chị Cao Thị Tuyết N, sinh năm 1984

Địa chỉ: Tiểu khu 1, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Quảng Bình "vắng mặt"

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, tại bản tự khai và tại phiên tòa anh Nguyễn Thành T trình bày:

Anh và chị Cao Thị Tuyết N kết hôn với nhau hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Đ ngày 02/10/2015. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn vì không hợp tính nhau, không cùng chung quan điểm sống, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng không thể tiếp tục chung sống với nhau nên hai người đã sống ly thân từ cuối năm 2015 cho đến nay. Hiện nay tình cảm vợ chồng thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và để tạo lập cuộc sống riêng cho cả hai người nên nguyện vọng xin được ly hôn.

Về con chung, anh Nguyễn Thành T thừa nhận hai vợ chồng có một con chung là Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 13/7/2016, hiện nay con đang còn nhỏ nên sau khi ly hôn anh Nguyễn Thành T có nguyện vọng để chị Cao Thị Tuyết N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con và anh T sẽ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng.

Về tài sản và nợ chung, vợ chồng không có tài sản chung, không nợ ai và không ai nợ vợ chồng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá đã thụ lý vụ án và tiến hành giải quyết vụ án. Tòa án đã triệu tập nhiều lần nhưng chỉ có mặt anh Nguyễn Thành T vắng mặt chị Cao Thị Tuyết N nên không tiến hành hòa giải được.

Ngày 19/01/2018 Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa đã tiến hành xác minh tại UBND thị trấn Đ về việc giao nhận Thông báo thụ lý vụ án và các giấy triệu tập của Tòa án cho chị Cao Thị Tuyết N. Anh Nguyễn Đăng H là cán bộ văn phòng thị trấn Đ cho biết văn phòng đã nhận được Thông báo thụ lý vụ án và 02 giấy triệu tập của Tòa án đối với chị Cao Thị Tuyết N, sau đó đã giao trực tiếp cho người nhà chị Cao Thị Tuyết N ký nhận.

Cùng ngày Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa đã xác minh tại nhà ông Cao Tiến S là bố đẻ của chị Cao Thị Tuyết N, trú tại tiểu khu 1, thị trấn Đ. Ông S cho biết chị N có hộ khẩu thường trú tại tiểu khu 1, thị trấn Đ, huyện T, hiện tại chị N đang công tác tại thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Vừa qua ông có nhận được Thông báo thụ lý vụ án và 02 giấy triệu tập của Tòa án đối với chị Cao Thị Tuyết N, gia đình đã thông báo cho chị N biết nhưng vì điều kiện công việc nên chị N không về được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Anh Nguyễn Thành T và chị Cao Thị Tuyết N kết hôn với nhau hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 02/10/2015 tại UBND thị trấn Đ, huyện T. Cuộc sống vợ chồng bước đầu hạnh phúc nhưng được một thời gian ngắn thì xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng thiếu tin tưởng lẫn nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2015 cho đến nay. Hiên nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống hôn nhân không thể kéo dài nên nguyện vọng xin ly hôn của anh Nguyễn Thành T là có căn cứ. Quá trình giải quyết vụ án chị Cao Thị Tuyết N không hợp tác nên Tòa án không tiến hành hòa giải được, cần áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xử cho anh Nguyễn Thành T được ly hôn vắng mặt chị Cao Thị Tuyết N.

[2] Về con chung của vợ chồng: Vợ chồng có một con chung tên là Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 13/7/2016, anh T có nguyện vọng để chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con và anh T sẽ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng là phù hợp vì con còn nhỏ, hiện tại con cũng đang ở với chị N. Vì vậy cần áp dụng khoản 3 Điều 81, Điều 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 13/7/2016 cho chị Cao Thị Tuyết N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, anh Nguyễn Thành T có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng kể từ tháng 3 năm 2018 đến khi con trưởng thành.

[3] Về tài sản và công nợ: Không có.

Về án phí: Anh Nguyễn Thành T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá phát biểu ý kiến về việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án của Thẩm phán và Thư ký đã tuân theo các quy định của pháp luật và tại phiên toà Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ và đảm bảo quyền lợi của đương sự theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xử anh Nguyễn Thành T được ly hôn vắng mặt chị Cao Thị Tuyết N; về con chung giao cho chị Nhung nuôi dưỡng, anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Xử anh Nguyễn Thành T ly hôn vắng mặt chị Cao Thị Tuyết N 

2. Về nuôi con chung: Áp dụng khoản 3 Điều 81, Điều 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 13/7/2016 cho chị Cao Thị Tuyết N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Thành T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) kể từ tháng 3 năm 2018 đến khi con đủ 18 tuổi.

Không ai được ngăn cản việc đi lại thăm nom, chăm sóc con chung, khi cần thiết vì lợi ích của con một trong hai bên có quyền làm đơn yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản và nợ chung của vợ chồng: Vợ chồng không có tài sản và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về án phí: Anh Nguyễn Thành T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, anh Trung đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0003517 ngày 02/10/2017 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuyên Hoá nay được khấu trừ.

Án phí cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Thành T phải chịu 300.000 đồng.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Tuyên bố các bên có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 06/3/2018). Đối với bị đơn vắng mặt thời hạn trên tính từ ngày niêm yết bản án nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

436
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2018/DS-ST ngày 06/03/2018 về ly hôn

Số hiệu:06/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuyên Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về