Bản án 05/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 05/2021/HS-ST NGÀY 28/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 92/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Duy A, sinh ngày 06-3-1991; tại: Tỉnh B; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: Khu phố C, phường B, thị xã C, tỉnh B; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Minh D (đã chết) và bà Nguyễn Thị E; Vợ: Nguyễn Thúy F, con: 01 người sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị tạm giữ ngày 08-11-2020, tạm giam ngày 17-11-2020- Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác: Người chứng kiến:

1/ Anh Nguyễn Thành G, sinh năm 1993. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú hiện nay: Khu phố I, phường B, thị xã C, tỉnh B- Vắng mặt.

2/ Anh Lê Hoàng H, sinh năm 1997. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú hiện nay: Khu phố C, phường B, thị xã C, tỉnh B- Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 08-11-2020, Công an thị xã Trảng Bàng, tỉnh B bắt quả tang Trần Duy A đang tàng trữ trái phép 01 đoạn ống hút nhựa màu hồng được bịt kín hai đầu bên trong có chứa tinh thể trong suốt (nghi là chất ma túy, ký hiệu M1) và 03 bịch nylon trong suốt được bịt kín bên trong có chứa tinh thể trong suốt (nghi là chất ma túy, ký hiện M2) được cất giấu tại nhà của bị cáo A thuộc khu phố C, phường B, thị xã C, tỉnh B. Thu giữ thêm số tiền Việt Nam 3.800.000 đồng và một số vật chứng khác có liên quan.

Qua điều tra, bị cáo A khai nhận: Vào khoảng 13 giờ ngày 06-11-2020, do có nhu cầu sử dụng chất ma túy nên bị cáo A đón xe buýt đến khu vực cầu vượt An Sương thuộc Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh gặp một người đàn ông tên Đ (không rõ địa chỉ) mua 01 bịch chất ma túy với số tiền 1.000.000 đồng. Sau đó, đem về nhà chia chất ma túy ra bỏ vào 03 bịch nylon trong suốt và 01 đoạn ống hút nhựa màu hồng, tất cả được bỏ chung vào hủ nhựa màu trắng và giấu dưới lỗ thoát nước nhà vệ sinh. Khoảng 08 giờ ngày 08-11-2020, bị cáo lấy ra một phần chất ma túy trong đoạn ống hút nhựa màu hồng để sử dụng, phần còn lại để trên bàn gỗ phía sau nhà. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo A bị Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang đang tàng trữ trái phép số chất ma túy trên.

Tại Kết luận giám định số Tại Kết luận giám định số 1796/KL-KTHS ngày 10-11-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận:

+ Tinh thể trong suốt ký hiệu M1 là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1124 gam.

+ Tinh thể trong suốt ký hiệu M2 là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,7609 gam.

Tại Cáo trạng số 01/CT-VKSTrB ngày 17 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng đã truy tố Trần Duy A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo A từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Áp dụng khoản 5 Điều 249; Điều 35 Bộ luật Hình sự xử phạt bổ sung bị cáo từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.

Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Xử lý vật chứng đã thu giữ theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo A thừa nhận: Hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã nêu.

 Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin giảm nhẹ hình phạt, sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Trảng Bàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Bị cáo A là người nghiện ma túy nên bị cáo đã nhiều lần mua ma túy về sử dụng. Đến ngày 06-11-2020, do có nhu cầu sử dụng chất ma túy nên bị cáo đến khu vực cầu vượt An Sương thuộc Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh gặp một người đàn ông tên Đ (không rõ địa chỉ) mua 01 bịch chất ma túy với số tiền 1.000.000 đồng tàng trữ để sử dụng và đến ngày 08-11-2020 thì bị bắt quả tang.

Căn cứ vào Kết luận giám định số 1796/KL-KTHS ngày 10-11-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận: Tinh thể trong suốt ký hiệu M1 là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1124 gam. Tinh thể trong suốt ký hiệu M2 là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,7609 gam.

Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu chứng cứ đã thu thập. Bị cáo A thừa nhận việc mua ma túy về tàng trữ nhằm mục đích sử dụng. Do đó, trong vụ án này, đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội; gây khó khăn cho công tác phòng chống ma tuý của Nhà nước và góp phần gây ra những tội phạm khác. Vì vậy, cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để có tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử còn xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Thấy rằng: Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có cha ruột và ông nội là thương binh. Do đó, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét thấy cần áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249, Điều 35 Bộ luật Hình sự.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo, Công an thị xã Trảng Bàng đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

Riêng người đàn ông tên “Đ” bán ma túy cho bị cáo A, hiện không rõ họ tên, địa chỉ nên không làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xử lý sau. [5] Về xử lý vật chứng:

- Một gói niêm phong ghi phong vụ số 1796/KL-KTHS có chữ lý của Giám định viên Nguyễn Thị Tuyết Mai và trợ lý Nguyễn Văn Đại, sau giám định bên trong còn lại 0,0620 gam chất ma túy (kí hiệu M1) và một gói niêm phong ghi phong vụ số 1796/KL-KTHS có chữ lý của Giám định viên Nguyễn Thị Tuyết Mai và trợ lý Nguyễn Văn Đại, sau giám định bên trong còn lại 0,6529 gam chất ma túy (kí hiệu M2), loại Methamphetamine là chất Nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 hủ nhựa màu trắng có nắp đậy; 01 bật lửa màu đỏ; 01 bình nhựa có nắp màu đen, trên nắp có gắn một ống thủy tinh trong suốt dạng phểu và một ống hút nhựa màu hồng-trắng; 01 chai nhựa Sting có nắp màu đỏ, trên nắp có gắn một ống hút nhựa màu hồng-trắng; 01 ống thủy tinh trong suốt; 02 đoạn ống hút nhựa, màu tím-trắng đã thu giữ trong khi khám xét nơi ở của bị cáo A tại khu phố C, phường B, thị xã C, tỉnh B là những vật dụng không có giá trị và vật dụng bị cáo dùng để sử dụng ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202, màu xanh trắng, số Imei 353780/00/537947/10521228, bên trong có sim số 0925262979 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung J6, màu xanh, số Imei 1: 354402100923234, số Imei 2:

354403100923232, bên trong có sim số 0986109114 không liên quan đến vụ án, nên trả lại bị cáo A là phù hợp.

Đối với số tiền Việt Nam 3.800.000 đồng là tiền cá nhân của bị cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[6] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51: Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Duy A 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08-11-2020.

Áp dụng khoản 5 Điều 249, Điều 35 Bộ luật Hình sự phạt bổ sung đối với bị cáo với số tiền 4.000.000 (bốn triệu) đồng sung công quỹ nhà nước.

2. Xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: Một gói niêm phong ghi phong vụ số 1796/KL-KTHS có chữ lý của Giám định viên Nguyễn Thị Tuyết Mai và trợ lý Nguyễn Văn Đại, sau giám định bên trong còn lại 0,0620 gam chất ma túy (kí hiệu M1); một gói niêm phong ghi phong vụ số 1796/KL-KTHS có chữ lý của Giám định viên Nguyễn Thị Tuyết Mai và trợ lý Nguyễn Văn Đại, sau giám định bên trong còn lại 0,6529 gam chất ma túy (kí hiệu M2) là loại Methamphetamine; 01 hủ nhựa màu trắng có nắp đậy; 01 bật lửa màu đỏ; 01 bình nhựa có nắp màu đen, trên nắp có gắn một ống thủy tinh trong suốt dạng phểu và một ống hút nhựa màu hồng-trắng; 01 chai nhựa Sting có nắp màu đỏ, trên nắp có gắn một ống hút nhựa màu hồng-trắng; 01 ống thủy tinh trong suốt; 02 đoạn ống hút nhựa, màu tím-trắng.

Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202, màu xanh trắng, số Imei 353780/00/537947/10521228, bên trong có sim số 0925262979 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung J6, màu xanh, số Imei 1: 354402100923234, số Imei 2: 354403100923232, bên trong có sim số 0986109114.

Tạm giữ số tiền Việt Nam 3.800.000 đồng của bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.

 3. Án phí:

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016:

Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về