Bản án 05/2021/HSST ngày 20/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH AN, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 05/2021/HSST NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20/4/2021 Tòa án nhân dân huyện Thạch An xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/2021/TLST - HS ngày 25 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXXST ngày 06/4/2021 đối với bị cáo: Nông Văn T; Tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam; Sinh ngày 12 tháng 6 năm 1969 Nơi cư trú: thôn N, xã L, huyện T, tỉnh C; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 12/12 phổ thông;

Con ông: Nông Văn Ng, sinh năm 1936, (Đã chết);

Con bà: Nông Thị Th, sinh năm 1937, (Đã chết);

Vợ: Triệu Thị Nh, sinh năm 1973; Nghề nghiệp: Trồng trọt;

Trú tại: thôn N, xã L, huyện T, tỉnh C; Con: Có một con sinh năm 1995;

Anh chị em ruột: Có bảy anh, chị, em, bị cáo là con thứ sáu trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không có.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Thạch An từ ngày 21/12/2020 đến nay.

Những người tham gia tố tụng khác:

1. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Triệu Thị Nh, sinh năm 1973.

Trú tại: thôn N, xã L, huyện T, tỉnh C;

2. Những người làm chứng:

2.1- Lương Văn Th; Sinh năm 1990. Vắng mặt

2.2- Lương Ngọc Thiêm; Sinh năm 1978. Vắng mặt

Cùng trú tại: Pò Lài, xã Trọng Con, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 15 giờ 55 phút, ngày 21/12/2020 Tổ công tác cơ quan Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Thạch An đang làm nhiệm vụ tại khu vực đèo Ngườm Kim, thuộc xã L, huyện T, tỉnh C phát hiện một đối tượng đang có biểu hiện sử dụng ma túy. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra, là Lương Văn Th, sinh ngày 13/7/1990, trú tại P, xã Tr, huyện T,tỉnh C. Qua kiểm tra phát hiện trên tay Th có 01 kim tiêm xilanh y tế đã qua sử dụng. Đấu tranh khai thác tại chỗ Th cho biết chiếc kim tiêm y tế trên vừa sử dụng ma túy xong, số ma túy vừa sử dụng xong mua với một người đàn ông tên T, trú tại: Nà Mò (Nà Keng), Lê Lai, Thạch An, Cao Bằng với giá 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng). Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang. Vật chứng thu giữ gồm: 01 bơm kim tiêm y tế đã qua sử dụng.

Căn cứ lời khai của Lương Văn Th, cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành xác minh, điều tra, xác định được Nông Văn T, sinh năm 1969, trú tại, xã L, huyện T, tỉnh C. Cùng ngày cơ quan cảnh sát điều tra phối hợp cùng cơ chức năng thi hành lệnh khám xét người và chỗ ở đối với Nông Văn T. Kết quả khám xét thu giữ thu giữ 03 gói giấy bạc màu trắng, bên trong giấy bạc màu trắng có chứa chất bột màu trắng (nghi heroine); Số tiền 200.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL; 01 xe máy nhãn hiệu Honda và một số vật chứng khác.

Ngày 22/12/2020 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng vật chứng thu giữ Nông Văn T có khối lượng là 0,23 gam (Không phẩy hai mươi ba gam) và ra Quyết định trưng cầu giám định đối với số chất bột màu trắng thu được. Tại bản Kết luận giám định số: 23/GĐMT ngày 07/01/2021 của phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: Mẫu chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroine.

Quá trình điều tra xác định được: Do bản thân nghiện ma túy nên từ đầu tháng 12/2020 đến ngày 21 tháng 12 năm 2020, Nông Văn T đi sang thị trấn Hòa Thuận, Quảng Hòa, Cao Bằng nhiều lần để mua ma túy (heroine) về chia nhỏ để sử dụng và bán cho nhiều người nghiện khác. Sáng ngày 21/12/2020 Nông Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α, màu đen, biển kiểm soát 11F6-9501 từ nhà đến khu vực Bó Tờ, thị trấn Hòa Thuận, Quảng Hòa gặp người đàn ông tên Hành, khoảng 30 tuổi, cao 1m65. Trước đó đã được mua ma túy với người này nhiều lần nên T gọi điện thoại để trao đổi, hẹn địa điểm mua ma túy. Khi đến nơi hẹn, qua thỏa thuận giá cả T đưa cho người đàn ông tên (Hành) số tiền 300.000 đồng, sau đó Hành đưa cho T 05 tép nhỏ được gói trong tờ giấy kẻ ô li. Sau khi mua được Heroine T điều khiển xe mô tô về nhà ở xã L, huyện T, tỉnh C. Tại đây T lấy ra 01 tép Heroine vừa mua đem ra để sử dụng. Sau khi sử dụng xong T ở nhà sinh hoạt bình thường. Đến khoảng 15 giờ 30 cùng ngày thì có Lương Văn Th, trú tại: P, xã Tr, huyện T,tỉnh C đến mua ma túy, Th đưa cho T 02 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng và T đưa cho Th 01 tép Heroine. Ngoài ra cơ quan điều tra xác định được trước khi bị bắt vào ngày 19/12/2020 T bán ma túy cho Lương Ngọc Th, sinh năm 1978, trú tại: P, xã Tr, huyện T,tỉnh C 01 tép ma túy (Heroine) với giá 200.000 đồng và bán cho Nông Văn Th 01 tép ma túy (Heroine) với giá 200.000 đồng. Đến ngày 21/12/2020 hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Nông Văn T bị phát hiện và bắt giữ.

Còn đối với người đàn ông tên Hành bán ma túy (heroine) cho Nông Văn T có đặc điểm như mô tả ở Thị trấn H, huyện Q,tỉnh C, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T phối hợp với Công an thị trấn H tiến hành xác minh nhưng không xác định được đối tượng như Nông Văn T đã mô tả.

Đối với Lương Ngọc Th và Lương Văn Th mua ma túy (Heroine) với T để sử dụng, Cơ quan điều tra đã xử phạt vi phạm hành chính là đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên toà bị cáo đã lần lượt khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Lời khai của những người làm chứng. Kết luận giám định về vật chứng.

Do vậy tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T thực hành quyền công tố đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, cũng như những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề cập đến nhân thân bị cáo, tiền án, tiền sự: không có, nhưng bị cáo nghiện ma túy. Vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 2, Điều 251; Điểm s Khoản 1điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Đồng thời đề nghị xử phạt bị cáo từ 07 năm đến 08 năm tù.

Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã thu giữ được các vật chứng gồm:

- 01 (một) phong bì thư niêm phong theo đúng quy định của pháp luật. Mặt trước phong bì ghi: " Tang vật vụ Nông Văn T, SN 1969, trú tại: xã L, huyện T, tỉnh C". Mặt sau có chữ ký của đối tượng và những người cùng tham gia lên phần giáp lai của phong bì, tại 04 (bốn) góc phong bì có đóng 04 (bốn) con dấu của Cơ quan CSĐT - Công an huyện T, tỉnh C.

- 01 (một) phong bì niêm phong theo đúng quy định của pháp luật. Mặt trước phong bì ghi: "Số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tạm giữ của Nông Văn T, SN: 1969, trú tại xã L, huyện T, tỉnh C". Mặt sau có chữ ký của đối tựơng và những người cùng tham gia lên phần giáp lai của phong bì, tại 04 (bốn) góc phong bì có đóng 04 (bốn) con dấu của Ban công an xã L huyện T, tỉnh C.

- 01 (một) phong bì niêm phong theo đúng quy định của pháp luật. Mặt trước phong bì ghi: "01 (một) bơm kim tiêm y tế đã qua sử dụng". Mặt sau có chữ ký của đối tượng và những người cùng tham gia lên phần giáp lai của phong bì, tại 04 (bốn) góc phong bì có đóng 04 (bốn) con dấu của Ban công an xã L huyện T, tỉnh C.

- 01 (một) phong bì niêm phong. Mặt truớc phong thư ghi: "01 (một) bơm kim tiêm y tế đã qua sử dụng của đối tượng Lương Văn Th bắt quả tang ngày 21/12/2020". Mặt sau có chữ ký của đối tượng và những người cùng tham gia lên phần giáp lai của phong bì.

- 01 (một) ĐTDĐ màu xanh, đen nhãn hiệu MASSTEL đã qua sử dụng.

- 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA Wave a, màu đen, bạc, BKS: 11F6- 9501, đã qua sử dụng.

Về xử lý vật chứng đề nghị HĐXX áp dụng điều 47 của Bộ luật hình sự 2015 và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân huyện T , Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Đây là vụ án "Mua bán trái phép chất ma túy" có tính chất rất nghiêm trọng do bị cáo Nông Văn T cố ý thực hiện. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có nhận thức, hiểu biết về xã hội và pháp luật, nhưng bản thân bị cáo T nghiện ma túy, nên khoảng 15 giờ ngày 21/12/2020 tại xã L, huyện T, tỉnh C, bị cáo T bán ma túy (Heroine) cho Lương Văn Th 01 tép với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Số ma túy (Heroine) còn lại chưa kịp bán thì bị phát hiện và bắt giữ. Cân tổng khối lượng số ma túy có 0,23 gam. Tại bản Kết luận giám định số:

23/GĐMT ngày 07/01/2021 của phòng K thuật hình sự Công an tỉnh C kết luận: Mẫu chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroine.

Ngoài ra, từ đầu tháng 12/2020 đến ngày 21/12/2020 Nông Văn T đi sang thị trấn H , huyện Q, tỉnh C nhiều lần để mua ma túy (heroine) về chia nhỏ sử dụng và bán cho nhiều người nghiện khác. Cụ thể ngày 19/12/2020 T bán ma túy (Heroine) cho Lương Ngọc Th 01 tép Heroine với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), bán cho Lương Văn Th, 01 tép Heroine với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Số còn lại 0,23g Heroine T chưa kịp bán thì bị phát hiện thu giữ.

Do vậy hành vi của bị cáo Nông Văn T có đủ yếu tố cấu thành tội: Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự:

Cáo trạng số 02/CTr-VKS ngày 24/3/2021 của VKSND huyện T, tỉnh C truy tố bị cáo Nông Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý theo điểm b khoản 2, Điều 251 Bộ luật hình sự. và bản luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội; nhân thân; các tình tiết giảm nhẹ; tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Nông Văn T là người nghiện ma túy, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhận biết được tác hại của ma tuý. Nhưng để có ma tuý sử dụng bị cáo đã bán ma tuý cho những người nghiện khác để xoay vòng vốn, Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo là thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, đồng thời cũng là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định thì mới đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

- Về nhân thân bị cáo: Bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng bản thân bị cáo là người nghiện ma tuý.

- Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, Do vậy bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Kiểm sát viên đề xuất áp dụng các điều luật, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

[5] Phần tranh luận: Bị cáo không tranh luận và không có ý kiến gì thêm.

[6] Phần nói lời sau cùng: Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về hoà nhập cộng đồng.

[7] Về vật chứng: Hội đồng xét xử sẽ căn cứ vào điều 47 của Bộ luật hình sự 2015 và điều 106 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý.

[8] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 251 ; Điểm s, Khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự 2015 - Tuyên bố bị cáo Nông Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Xử phạt bị cáo Nông Văn T – 07 (bảy) năm tù, thời gian thụ hình được tính kể từ ngày 21/12/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điều 47 của Bộ luật hình sự 2015 và điều 106 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

Tuyên:

Tịch thu tiêu huỷ:

- 01 (một) phong bì thư niêm phong theo đúng quy định của pháp luật. Mặt trước phong bì ghi: " Tang vật vụ Nông Văn T, SN 1969, trú tại: xã L, huyện T, tỉnh C". Mặt sau có chữ ký của đối tượng và những ngưòi cùng tham gia lên phần giáp lai của phong bì, tại 04 (bốn) góc phong bì có đóng 04 (bốn) con dấu của Cơ quan CSĐT - Công an huyện T , tỉnh C.

- 01 (một) phong bì niêm phong theo đúng quy định của pháp luật. Mặt trước phong bì ghi: "01 (một) bơm kim tiêm y tế đã qua sử dụng". Mặt sau có chữ ký của đối tượng và những ngừơi cùng tham gia lên phần giáp lai của phong bì, tại 04 (bốn) góc phong bì có đóng 04 (bốn) con dấu của Ban công an xã L, huyenj T, tỉnh C.

- 01 (một) phong bì niêm phong. Mặt truớc phong thư ghi: "01 (một) bơm kim tiêm y tế đã qua sử dụng của đối tượng Lương Văn Th bắt quả tang ngày 21/12/2020". Mặt sau có chữ ký của đối tượng và những người cùng tham gia lên phần giáp lai của phong bì.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước: Số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) số tiền được đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong theo đúng quy định của pháp luật. Mặt truớc phong bì ghi: "Số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tạm giữ của Nông Văn T, SN: 1969, trú tại xã L, huyện T, tỉnh C". Mặt sau có chữ ký của đối tựơng và những người cùng tham gia lên phần giáp lai của phong bì, tại 04 (bốn) góc phong bì có đóng 04 (bốn) con dấu của Ban công an xã L, Huyện T, tỉnh C do bị cáo mua bán trái phép chất ma tuý mà có.

- Tịch thu phát mại sung công quỹ nhà nước: 01 (một) ĐTDĐ màu xanh, đen nhãn hiệu MASSTEL đã qua sử dụng. Là chiếc điện thoại bị cáo Nông Văn T đã dùng liên lạc mua bán ma tuý cho những người nghiện khác. Nên phải tịch thu sung công qu nhà nước.

- Trả lại: cho bà Triệu Thị Nh: 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA Wave a, màu đen, bạc, BKS: 11F6-9501, đã qua sử dụng, là chiếc xe mô tô thuộc sở hữu của bà Triệu Thị Nh, bị cáo T sử dụng chiếc xe mô tô đi mua ma túy bà Nh (vợ bị cáo) không được biết nên được trả lại cho bà Triệu Thị Nh.

Toàn bộ các vật chứng trên đang được lưu giữ tại kho vật chứng cơ quan Thi hành án dân sự huyện Tvà sẽ được đưa ra thi hành sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 21; Điều 23; của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nông Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) sung công qu nhà nước.

Án xử sơ thẩm công khai, báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HSST ngày 20/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch An - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về