Bản án 05/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội tham ô tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 05/2021/HS-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 131/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 02/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Ngọc G, sinh năm 1989 tại tỉnh Bến Tre; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp HN, xã HKT, huyện MCB, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1968; Chồng: Nguyễn Trọng Đ (đã ly hôn); Con: có 01 người con sinh năm 2015; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 05/10/2020 cho đến nay. (Có mặt)

* Bị hại:

Công ty TNHH một thành viên Nhà hàng NB; Địa chỉ: Khu phố C, phường PK, thành phố BT, tỉnh Bến Tre;

Đại diện theo pháp luật: Lý Thị Ngọc M - Giám đốc; Nơi cư trú: Khu phố B, phường PK, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

Đại diện theo ủy quyền: Võ Thanh H, sinh năm 1978; Nơi cư trú: Ấp AT, xã TT, huyện GT, tỉnh Bến Tre. (Có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ngô Văn H1, sinh năm 1979; Nơi cư trú: Khu phố B, phường PK, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt)

* Người làm chứng:

- Quách Tuyết T, sinh năm 1963; Nơi cư trú: Khu phố B, phường AH, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. (Có mặt)

- Nguyễn Thị Thanh T1, sinh năm 1964; Nơi cư trú: Khu phố F, phường PK, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. (Có mặt)

- Huỳnh Hùng Đ, sinh năm 1973; Nơi cư trú: Khu phố F, phường AH, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt)

- Đặng Văn T2, sinh năm 1986; Nơi cư trú: Ấp CV, xã MC, huyện BT, tỉnh Bến Tre. (Có mặt)

- Lương Thanh N, sinh năm 1990; Nơi cư trú: Khu phố BN, Phường F, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. (Có mặt)

- Trần Mai Đôn H2, sinh năm 1993; Nơi cư trú: Ấp MĐ, xã BP, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt)

- Phan Quốc D, sinh năm 1970; Nơi cư trú: Ấp PT, xã PH, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt)

- Phạm Văn T3, sinh năm 1980; Nơi cư trú: Ấp A, xã HN, huyện GT, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt)

- Nguyễn Văn C, sinh năm 1961; Nơi cư trú: Phường AH, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt)

- Huỳnh Thị Kim C1, sinh năm 1990; Nơi cư trú: Ấp TT, xã TPT, huyện MCB, tỉnh Bến Tre. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Công ty TNHH một thành viên Nhà hàng NB (gọi tắt là Công ty Nhà hàng NB) thuộc sở hữu của Công ty TNHH HT được thành lập theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty TNHH một thành viên do Phòng đăng ký kinh doanh Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Bến Tre cấp ngày 24/4/2015, địa chỉ trụ sở chính tại khu phố c, phường PK, thành phố BT, tỉnh Bến Tre, với vốn điều lệ là 20.000.000.000 đồng, do bà Lý Thị Ngọc M làm giám đốc đại diện theo pháp luật của công ty.

Ngày 06/10/2019, Công ty Nhà hàng NB thuê bị cáo Nguyễn Thị Ngọc G vào làm việc. Ngày 07/10/2019, Giám đốc công ty bà Lý Thị Ngọc M ký quyết định số 02 phân công bị cáo G giữ chức vụ kế toán thanh toán có trách nhiệm và quyền hạn là chịu trách nhiệm quản lý quỹ tiền mặt và thu chi theo quy định; báo cáo thu chi doanh số bán hàng hàng ngày; mở sổ sách theo dõi các khoản thu chi có liên quan và các công việc khác có liên quan theo sự phân công và chỉ đạo của Ban Giám Đốc. Trên cơ sở quyết định phân công công việc, Võ Thanh H là người được giao trực tiếp quản lý Công ty Nhà hàng NB giao nhiệm vụ cho bị cáo G cụ thể như sau: Quản lý quỹ và giữ tiền mặt hàng ngày của nhà hàng; báo cáo doanh thu hàng ngày của nhà hàng; chấm công các nhân viên đi làm hàng ngày; chi tiền tạm ứng đi chợ cho các nhân viên nhà hàng; chi trả tiền cho nhà cung cấp nguyên liệu; chi trả tiền cho các dịch vụ phụ trợ; chi trả tiền lương cho các nhân viên khi đến kỳ.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, bị cáo G đã dùng nhiều thủ đoạn gian dối như: Làm giả phiếu chi tiền cho khách hàng; lập báo cáo nâng khống số tiền đã chi cho các đơn vị cung cấp nguyên liệu; lập các phiếu tạm ứng giả hoặc các phiếu tạm ứng nhiều hơn số tiền thực tế mà các nhân viên tạm ứng; báo cáo doanh thu hàng ngày ít hơn doanh thu thực tế để chiếm đoạt tiền của Công ty Nhà hàng NB, cụ thể:

1/ Chi sai chứng từ:

- Ngày 13/10/2019, phiếu chi mua xe đẩy với số tiền là 1.150.000 đồng nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 1.200.000 đồng, sau đó rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền chênh lệch 50.000 đồng.

- Ngày 26/10/2019, phiếu chi trả tiền xe lôi và bọc ghế với số tiền là 600.000 đồng nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 2.000.000 đồng, sau đó rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền chênh lệch 1.400.000 đồng, - Ngày 06/11/2019, phiếu chi trả tiền khô Yến Loan với số tiền là 1.916.000 đồng nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 2.000.000 đồng, sau đó rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền chênh lệch 84.000 đồng.

- Ngày 07/11/2019, phiếu chi mua kéo cắt kiểng, cá cảnh, đôn để chậu với số tiền là 1.149.000 đồng nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 1.249.000 đồng, sau đó rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền chênh lệch 100.000 đồng.

- Ngày 07/11/2019, phiếu chi mua sơn, cây cọ, cây sủn với số tiền là 154.000 đồng nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 500.000 đồng, sau đó rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền chênh lệch 346.000 đồng.

- Ngày 18/12/2019, phiếu chi mua cá chẻm với số tiền là 333.000 đồng nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 500.000 đồng, sau đó rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền chênh lệch 167.000 đồng.

- Ngày 19/12/2019, phiếu chi mua bia với số tiền là 1.295.000 đồng nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 2.850.000 đồng, sau đó rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền chênh lệch 1.555.000 đồng.

- Ngày 26/12/2019, phiếu chi cho nhân viên nghỉ việc với số tiền là 3.807.692 đồng nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 3.907.692 đồng, sau đó rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền chênh lệch 100.000 đồng.

- Ngày 27/12/2019, phiếu chi thanh toán tiền rác tháng 12 với số tiền là 2.340.000 đồng nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 2.430.000 đồng, sau đó rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền chênh lệch 90.000 đồng.

- Ngày 05/01/2020, phiếu chi thanh toán phục vụ ngoài giờ (casua) với số tiền là 1.950.000 đồng nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ 2.487.500 đồng, sau đó rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền chênh lệch 537.500 đồng.

- Ngày 20/01/2020, phiếu chi mua bia với số tiền là 1.389.000 đồng nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 2.850.000 đồng, sau đó rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền chênh lệch 1.461.000 đồng.

- Ngày 21/01/2020, phiếu chi mua bia với số tiền là 1.000.000 đồng nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 1.808.000 đồng, sau đó rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền chênh lệch 808.000 đồng.

- Ngày 22/01/2020, phiếu chi mua thị bò với số tiền là 4.028.000 đồng nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 5.028.000 đồng, sau đó rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền chênh lệch 1.000.000 đồng.

Tổng số tiền bị cáo G chiếm đoạt là 7.698.500 đồng.

2/ Không ghi doanh thu vào sổ và ghi doanh thu tiền mặt hàng ngày thấp hơn thực tế vào sổ theo dõi Doanh thu và dòng tiền mặt rồi rút tiền mặt đang quản lý ra chiếm đoạt:

- Ngày 10/10/2019, doanh thu tiền mặt nhận được là 5.086.300 đồng, nhưng bị cáo G không ghi vào sổ mà để ngoài quĩ để chiếm đoạt số tiền 5.086.300 đồng.

- Ngày 13/11/2019, doanh thu tiền mặt nhận được là 29.718.760 đồng, nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 29.475.760 đồng, để chiếm đoạt số tiền chênh lệch là 243.000 đồng.

- Ngày 21/11/2019, doanh thu tiền mặt nhận được là 8.651.700 đồng, nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 6.147.700 đồng, để chiếm đoạt số tiền chênh lệch là 2.504.000 đồng.

- Ngày 22/11/2019, doanh thu tiền mặt nhận được là 9.360.000 đồng, nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 6.911.000 đồng, để chiếm đoạt số tiền chênh lệch là 2.449.000 đồng.

- Ngày 03/12/2019, doanh thu tiền mặt nhận được là 16.455.425 đồng, nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 12.329.325 đồng, để chiếm đoạt số tiền chênh lệch là 4.126.100 đồng.

- Ngày 10/12/2019, doanh thu tiền mặt nhận được là 18.476.400 đồng, nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 16.161.400 đồng, để chiếm đoạt số tiền chênh lệch là 2.315.000 đồng.

- Ngày 14/12/2019, doanh thu tiền mặt nhận được là 3.983.400 đồng, nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ là 3.709.400 đồng, để chiếm đoạt số tiền chênh lệch là 274.000 đồng.

Ngoài ra, bị cáo G lại ghi vào sổ số tiền nhập quĩ nhiều hơn số tiền mặt thực nhận, cụ thể:

- Ngày 05/12/2019, doanh thu tiền mặt nhận được là 8.473.650 đồng nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ số tiền 9.908.650 đồng số tiền chênh lệch cao hơn là 1.435.000 đồng.

- Ngày 18/01/2020, thu tiền mặt nhận được là 32.749.000 đồng nhưng bị cáo G lại ghi vào sổ số tiền 33.697.100 đồng với số tiền chênh lệch cao hơn là 948.100 đồng.

Sau khi khấu trừ số tiền ghi thừa 2.383.100 đồng thì tổng số tiền bị cáo G còn chiếm đoạt là 14.614.300 đồng.

3/ Bị cáo G tự ý ghi khống vào sổ theo dõi Doanh thu và dòng tiền mặt rồi rút tiền mặt các khoản chi đang quản lý ra chiếm đoạt:

- Ngày 06/10/2019, ghi chi mua dưa và rút tiền mặt chiếm đoạt 58.000 đồng.

- Ngày 06/10/2019, ghi chi mua nước uống và rút tiền mặt chiếm đoạt 480.000 đồng.

- Ngày 12/10/2019, ghi chi mua cua và rút tiền mặt chiếm đoạt 2.000.000 đồng.

- Ngày 16/10/2019, ghi chi mua trứng gà và rút tiền mặt chiếm đoạt 445.000 đồng.

- Ngày 17/10/2019, ghi chi mua thịt gà và rút tiền mặt chiếm đoạt 727.500 đồng.

- Ngày 18/10/2019, ghi chi mua ốc và rút tiền mặt chiếm đoạt 2.265.000 đồng.

- Ngày 22/10/2019, ghi chi mua soda và rút tiền mặt chiếm đoạt 100.000 đồng.

- Ngày 26/10/2019, ghi chi mua cua và rút tiền mặt chiếm đoạt 2.100.000 đồng.

- Ngày 27/10/2019, ghi chi sửa amly và rút tiền mặt chiếm đoạt 1.000.000 đồng.

- Ngày 29/10/2019, ghi chi mua cua và rút tiền mặt chiếm đoạt 1.000.000 đồng.

- Ngày 30/10/2019, ghi chi sửa máy lạnh rút tiền mặt chiếm đoạt 700.000 đồng.

- Ngày 03/11/2019, ghi chi sửa chữa khu vực VIP và rút tiền mặt chiếm đoạt 5.630.000 đồng.

- Ngày 07/11/2019, ghi chi mua sơn chậu và rút tiền mặt chiếm đoạt 250.000 đồng.

- Ngày 08/11/2019, ghi chi mua của và rút tiền mặt chiếm đoạt 1.000.000 đồng.

- Ngày 09/11/2019, ghi chi mua dụng cụ bếp và rút tiền mặt chiếm đoạt 2.921.000 đồng.

- Ngày 18/11/2019, ghi chi trả dịch vụ My-tivi và rút tiền mặt chiếm đoạt 636.000 đồng.

- Ngày 22/11/2019, ghi chi thanh toán tiền nước sinh hoạt tháng 10/2019 và rút tiền mặt chiếm đoạt 2.947.663 đồng.

- Ngày 01/12/2019, ghi chi thanh toán tiền gắn đèn pha và rút tiền mặt chiếm đoạt 1.000.000 đồng.

- Ngày 04/12/2019, ghi chi mua cua và rút tiền mặt chiếm đoạt 2.000.000 đồng.

- Ngày 13/12/2019, ghi chi mua bia và rút tiền mặt chiếm đoạt 2.850.000 đồng.

- Ngày 06/01/2020, ghi chi tạm ứng lắp đèn chòi và rút tiền mặt chiếm đoạt 2.000.000 đồng.

- Ngày 09/01/2020, ghi chi mua khăn lạnh và rút tiền mặt chiếm đoạt 2.000.000 đồng.

- Ngày 10/01/2020, ghi chi tạm ứng đi chợ và rút tiền mặt chiếm đoạt 2.000.000 đồng.

- Ngày 19/01/2020, ghi chi thuê phục vụ ngoài giờ (casua) và rút tiền mặt chiếm đoạt 300.000 đồng.

- Ngày 19/01/2020, ghi chi mua pin rút tiền mặt chiếm đoạt 360.000 đồng.

- Ngày 20/01/2020, ghi chi sửa chữa chòi và rút tiền mặt chiếm đoạt 1.500.000 đồng.

- Ngày 22/02/2020, ghi chi mua bình nước uống và rút tiền mặt chiếm đoạt 120.000 đồng.

- Ngày 22/02/2020, ghi chi mua bia và rút tiền mặt chiếm đoạt 1.276.000 đồng.

Tổng cộng số tiền bị cáo G chiếm đoạt là 39.666.163 đồng.

4/ Chiếm đoạt tiền từ việc chi nhận tiền mặt nhưng lại không thanh toán cho nhà cung cấp mà chiếm đoạt luôn số tiền đã rút ra khỏi quĩ tiền mặt, cụ thể:

- Ngày 16/10/2019, bị cáo G lập phiếu chi trả chi phí xử lý rác tháng 10/2019, cho Công ty công trình đô thị thành phố Bến Tre số tiền 1.872.000 đồng. Sau khi rút tiền mặt thì bị cáo G không thanh toán mà giữ lại để chiếm đoạt.

- Ngày 27/12/2019, bị cáo G ghi vào sổ theo dõi Doanh thu và dòng tiền mặt trả tiền điện tháng 11/2019, cho Công ty Điện lực thành phố Bến Tre số tiền 17.187.680 đồng. Sau khi rút tiền mặt thì bị cáo G chiếm đoạt vì thực tế Công ty HT đã thanh toán cho Công ty Điện lực thành phố Bến Tre số tiền này từ ngày 10/12/2019.

- Ngày 27/12/2019, bị cáo G lập phiếu chi trả chi phí bảo vệ tháng 11/2019 cho Công ty bảo vệ Trọng Hiếu số tiền 13.875.000 đồng. Sau khi rút tiền mặt thì bị cáo G chỉ thanh toán cho Công ty Trọng Hiếu 12.875.000 đồng giữ lại 1.000.000 đồng để chiếm đoạt.

- Ngày 21/01/2020, bị cáo G ghi sổ theo dõi Doanh thu và dòng tiền mặt trả tiền chi phí bảo vệ tháng 12/2019 cho Công ty bảo vệ Trọng Hiếu số tiền 13.400.000 đồng. Sau khi rút tiền mặt thì bị cáo G không thanh toán cho Công ty Trọng Hiếu mà giữ lại để chiếm đoạt.

- Ngày 08/02/2020, bị cáo G ghi sổ theo dõi Doanh thu và dòng tiền mặt trả tiền gas tháng 01/2020 cho Công ty xăng dầu Bến Tre số tiền 8.055.348 đồng. Sau khi rút tiền mặt thì bị cáo G không thanh toán cho Công ty xăng dầu Bến Tre mà giữ lại để chiếm đoạt.

- Ngày 14/02/2020, bị cáo G lập phiếu chi trả tiền nước sinh hoạt tháng 01/2020 cho Công ty cấp thoát nước Bến Tre số tiền 5.587.778 đồng. Sau khi rút tiền mặt thì bị cáo G không thanh toán cho Công ty cấp thoát nước Bến Tre mà giữ lại để chiếm đoạt.

- Ngày 15/02/2020, bị cáo G lập phiếu chi trả tiền mua than tháng 01/2020 cho bà Quách Tuyết T số tiền 1.150.000 đồng. Sau khi rút tiền mặt thì bị cáo G không thanh toán cho bà Quách Tuyết T mà giữ lại để chiếm đoạt.

- Ngày 17/02/2020, bị cáo G ghi sổ theo dõi Doanh thu và dòng tiền mặt trả tiền mua gia vị tháng 01/2020 số tiền 3.234.000 đồng. Sau khi rút tiền mặt thì bị cáo G không thanh toán mà giữ lại để chiếm đoạt.

- Ngày 22/02/2020, bị cáo G ghi sổ theo dõi Doanh thu và dòng tiền mặt trả tiền chi phí bảo vệ tháng 01/2020 cho Công ty bảo vệ Trọng Hiếu số tiền 16.187.000 đồng. Sau khi rút tiền mặt thì bị cáo G không thanh toán cho Công ty Trọng Hiếu mà giữ lại để chiếm đoạt.

Tổng cộng số tiền bị cáo G chiếm đoạt là 67.674.306 đồng.

5/ Ghi khống các khoản tạm ứng, lập biên nhận giả và ghi giả mục chi vào sổ theo dõi Doanh thu và dòng tiền mặt để chiếm đoạt tiền của công, cụ thể:

- Ngày 06/10/2019, ghi vào sổ theo dõi Doanh thu và dòng tiền mặt Võ Công H3 ứng chi mua đồ cho nhà hàng để rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền 2.500.000 đồng.

- Ngày 16/10/2019, ghi vào sổ theo dõi Doanh thu và dòng tiền mặt chi cho Nguyễn Thị Kim P nhân viên của nhà hàng đi chợ mua nguyên liệu cho nhà hàng để rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền 2.000.000 đồng.

- Ngày 17/10/2019, ghi vào sổ theo dõi Doanh thu và dòng tiền mặt chi trả cho cửa hàng hải sản UD để rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền 4.270.000 đồng.

- Ngày 17/10/2019, lập phiếu chi giả chi cho Nguyễn Hoàng V nhân viên nhà hàng thay bạc quay tay số tiền 3.080.000 đồng rồi ký giả chữ ký V ký nhận chiếm đoạt số tiền này.

- Ngày 19/10/2019, ghi vào sổ theo dõi Doanh thu và dòng tiền mặt chi cho nhân viên Nguyễn Thị Kim P nhân viên nhà hàng đi mua nguyên liệu để rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền 500.000 đồng.

- Ngày 20/10/2019, ghi vào sổ theo dõi Doanh thu và dòng tiền mặt chi cho nhân viên Nguyễn Thị Kim P nhân viên nhà hàng đi mua nguyên liệu để rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền 1.000.000 đồng.

- Ngày 21/10/2019, lập phiếu chi giả chi thanh toán tiền bia cho Nguyễn Minh T4 ở đại lý bia anh Định rồi giả chữ ký của T4 ký nhận chiếm đoạt số tiền 10.000.000 đồng.

- Ngày 22/10/2019, ghi vào sổ theo dõi Doanh thu và dòng tiền mặt trả tiền điện tháng 09/2019, cho Công ty Điện lực thành phố Bến Tre để rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền 3.342.500 đồng.

- Ngày 29/10/2019, lập phiếu chi giả chi thanh toán tiền thịt bò cho Nguyễn Văn L rồi giả chữ ký L ký nhận chiếm đoạt số tiền 2.000.000 đồng.

- Ngày 30/10/2019, ghi vào sổ theo dõi Doanh thu và dòng tiền mặt trả tiền rau cho Nguyễn Thị Mai L1 để rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền số tiền 2.817.000 đồng.

- Ngày 26/11/2019, lập phiếu chi giả chi tiền điện tháng 10/2019, cho Lê Ngọc T5 rồi giả chữ ký T5 ký nhận chiếm đoạt số tiền 15.000.000 đồng.

- Ngày 30/11/2019, lập phiếu chi giả chi tiền điện tháng 10/2019, cho Lê Ngọc T5 rồi giả chữ ký T5 ký nhận chiếm đoạt số tiền 4.964.556 đồng.

- Ngày 10/01/2020, lập phiếu chi giả chi tiền gas tháng 12/2019, cho Trần Mai Đôn H2 rồi giả chữ ký H2 ký nhận chiếm đoạt số tiền 7.894.056 đồng.

- Ngày 21/01/2020, Công ty chỉ thanh toán tiền mua rau cho Lương Thành N là 10.190.000 đồng, nhưng lập phiếu chi giả chi tiền mua rau cho Lương Thành N số tiền 14.190.000 đồng rồi giả chữ ký của N ký vào phiếu chi để rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền 4.000.000 đồng.

- Ngày 21/01/2020, Công ty chỉ thanh toán tiền mua hải sản cho Đặng Văn T2 là 31.417.350 đồng, nhưng lập phiếu chi giả chi tiền mua hải sản cho Đặng Văn T2 số tiền 35.417.350 đồng rồi giả chữ ký của T2 ký vào phiếu chi để rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền 4.000.000 đồng.

- Ngày 21/01/2020, Công ty chỉ thanh toán tiền mua nước ngọt cho Phạm Văn T3 là 12.385.000 đồng, nhưng lập phiếu chi giả chi tiền mua nước ngọt cho Phạm Văn T3 số tiền 18.385.000 đồng rồi giả chữ ký của T3 ký vào phiếu chi để rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền 6.000.000 đồng.

- Ngày 21/01/2020, lập phiếu chi giả chi tiền mua hải sản cho Nguyễn Minh K rồi giả chữ ký K ký nhận chiếm đoạt số tiền 13.777.0000 đồng.

- Ngày 21/01/2020, Công ty chỉ thanh toán tiền mua dụng cụ cho Phan Quốc D nhân viên của quán là 1.874.000 đồng, nhưng lập phiếu chi giả chi tiền thanh toán mua dụng cụ cho Phan Quốc D số tiền 2.874.000 đồng rồi giả chữ ký của D ký vào phiếu chi để rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền 1.000.000 đồng.

- Ngày 15/02/2020, lập phiếu chi giả chi tiền mua nước đá tháng 01/2020 cho Nguyễn Hoàng K rồi giả chữ ký K ký nhận chiếm đoạt số tiền 4.074.000 đồng.

- Ngày 22/02/2020, lập phiếu chi giả chi tiền mua thịt bò cho Nguyễn Văn T6 rồi ký giả tên T6 ký nhận chiếm đoạt số tiền 7.000.000 đồng.

- Ngày 22/02/2020, ghi vào sổ theo dõi Doanh thu và dòng tiền mặt trả tiền điện cho Công ty điện lực tháng 01/2020 để rút tiền mặt chiếm đoạt số tiền 11.150.002 đồng.

- Ngày 23/02/2020, lập phiếu chi giả chi tiền mua nước ngọt cho Phạm Văn T3 rồi ký giả tên T3 ký nhận chiếm đoạt số tiền số tiền 3.920.000 đồng.

Tổng số tiền bị cáo G chiếm đoạt là 114.290.164 đồng.

Tại bản cáo trạng số 132/CT-VKSTPBT ngày 28 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã truy tố bị cáo G về tội “Tham ô tài sản” theo quy định tại các điểm c, d khoản 2 Điều 353 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà:

Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị:

- Về tội danh và hình phạt chính: Áp dụng các điểm c, d khoản 2 Điều 353; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo G từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù về tội “Tham ô tài sản”.

- Về hình phạt bổ sung: Cấm bị cáo G đảm nhiệm chức vụ kế toán từ 01 năm đến 02 năm.

- Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; các Điều 584, 585, 586, 588, 589 Bộ luật dân sự:

Trả cho Công ty Nhà hàng NB Tập chứng chỉ tháng 10/2019 (469 trang), Tập chứng chỉ tháng 11/2019 (380 trang), Tập chứng chỉ tháng 12/2019 (410 trang), Tập chứng chỉ tháng 01/2020 (247 trang), Tập chứng chỉ tháng 02/2020 (160 trang), Sổ ký nhận: Bắt đầu từ ngày 30/10/2019, Sổ ký nhận: Bắt đầu từ ngày 05/12/2019, Sổ tạm ứng nội bộ: Bắt đầu từ ngày 08/02/2020, Sổ ghi doanh thu bán hàng (KT 19,5x30,5) (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/01/2021, hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Tre quản lý).

Buộc bị cáo G bồi thường cho Công ty Nhà hàng NB số tiền bị cáo đã chiếm đoạt là 243.943.433 đồng, tiền lãi đối với số tiền này và số tiền tồn quỹ mà bị cáo chua giao nộp là 675.774 đồng. Tiếp tục tạm giữ số tiền 5.000.000 đồng mà bị cáo G đã nộp tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre để bảo đảm thi hành án.

Bị cáo G khai nhận bị cáo là kế toán thanh toán, kiêm thủ quỹ của Công ty Nhà hàng NB. Bị cáo đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao nhiều lần thực hiện các hành vi: Ghi chi sai số tiền trong phiếu chi để chiếm đoạt của Công ty Nhà hàng NB số tiền là 7.698.500 đồng; Không ghi doanh thu vào sổ và ghi sai doanh thu tiền mặt nhập quĩ hàng ngày thấp hơn thực tế để chiếm đoạt của Công ty Nhà hàng NB số tiền là 14.614.300 đồng; Ghi chi khống nhiều khoản vào sổ rút tiền mặt để chiếm đoạt của Công ty Nhà hàng NB số tiền 39.666.163 đồng; Nhận tiền mặt để thanh toán cho các nhà cung cấp để chiếm đoạt của Công ty Nhà hàng NB số tiền 67.674.306 đồng; Ghi khống các khoản tạm ứng của nhân viên, lập các phiếu chi giả và phiếu chi cao hơn phiếu chi thực tế để chiếm đoạt của Công ty Nhà hàng NB số tiền 114.290.163 đồng. Tổng số tiền bị cáo đã chiếm đoạt của Công ty Nhà hàng NB là 243.943.433 đồng. Bị cáo đồng ý bồi thường cho Công ty Nhà hàng NB số tiền 243.943.433 đồng, tiền lãi đối với số tiền này và đồng ý trả lại số tiền tồn quỹ mà bị cáo chua giao nộp là 675.774 đồng. Bị cáo không khiếu nại gì đối với các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện theo ủy quyền của bị hại là ông Võ Thanh H trình bày: Công ty Nhà hàng NB có hợp đồng lao động với bị cáo G từ ngày 06/10/2019, nhiệm vụ của bị cáo G tại Công ty là kế toán thanh toán, có trách nhiệm quản lý tiền mặt và thu chi theo quy định, báo cáo thu chi doanh số bán hàng hằng ngày, mở sổ sách theo dõi thu chi có liên quan và công việc khác theo sự phân công của lãnh đạo Công ty. Ông là người trực tiếp phân công, theo dõi, giao nhiệm vụ và kiểm tra thực hiện nhiệm vụ của bị cáo G. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của bị cáo G, do công tác quản lý, kiểm tra thiếu chặt chẽ của ông, bị cáo G đã lợi dụng để chiếm đoạt số tiền của Công ty là 243.943.433 đồng và số tiền tồn quỹ là 675.774 đồng bị cáo G còn giữ chưa hoàn trả cho Công ty. Nay Công ty Nhà hàng NB yêu cầu bị cáo G bồi thường số tiền đã chiếm đoạt là 243.943.433 đồng và lãi suất theo mức lãi suất Ngân hàng từ ngày 01/03/2020 cho đến nay, đồng thời yêu cầu bị cáo G hoàn trả số tiền tồn quỹ là 675.774 đồng mà bị cáo chưa hoàn trả.

Người làm chứng Quách Tuyết T trình bày: Bà có bán than cho Công ty Nhà hàng NB. Bị cáo G có lập phiếu chi trả tiền mua than tháng 01/2020 cho bà nhưng không thanh toán cho bà.

Người làm chứng Nguyễn Thị Thanh T2 trình bày: Bị cáo G có đến Công ty công trình đô thị thành phố Bến Tre lấy hóa đơn tiền rác tháng 10/2019 đến tháng 12/2019 nhưng không thanh toán cho Công ty.

Người làm chứng Đặng Văn T2 trình bày: Ông có bán hải sản cho Công ty Nhà hàng NB. Ngày 21/01/2020, Công ty Nhà hàng NB có thanh toán tiền mua hải sản cho anh với số tiền 31.417.350 đồng.

Người làm chứng Lương Thanh N trình bày: Ông có bán rau cho Công ty Nhà hàng NB. Ngày 21/01/2020, Công ty Nhà hàng NB có thanh toán tiền mua rau cho anh với số tiền 10.190.000 đồng.

Người làm chứng Huỳnh Thị Kim C2 trình bày: Công ty bảo vệ Trọng Hiếu có cung cấp dịch vụ bảo vệ cho Công ty Nhà hàng NB. Từ tháng 11/2019 đến tháng 01/2020, Công ty Nhà hàng NB chưa thanh toán chi phí dịch vụ bảo vệ cho Công ty bảo vệ Trọng Hiếu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Bến Tre, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Việc vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng, bị cáo G không có ý kiến gì, Viện kiểm sát đề nghị xét xử vắng mặt những người này. Xét thấy việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người này là phù hợp theo quy định tại Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Bị cáo G có lời khai tại phiên tòa phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các chứng cứ khác đã thu thập được trong quá trình điều tra, có đủ cơ sở xác định: Trong khoảng thời gian từ ngày 06/10/2019 đến ngày 23/02/2020, bị cáo G là kế toán thanh toán kiêm thủ quĩ của Công ty Nhà hàng nb tại địa chỉ Khu phố c, phường PK, thành phố BT, tỉnh Bến Tre đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao nhiều lần thực hiện các hành vi: Ghi chi sai số tiền trong phiếu chi để chiếm đoạt của Công ty Nhà hàng NB số tiền là 7.698.500 đồng; Không ghi doanh thu vào sổ và ghi sai doanh thu tiền mặt nhập quĩ hàng ngày thấp hơn thực tế để chiếm đoạt của Công ty Nhà hàng NB số tiền là 14. 614.300 đồng; Ghi chi khống nhiều khoản vào sổ rút tiền mặt để chiếm đoạt của Công ty Nhà hàng NB số tiền 39.666.163 đồng; Nhận tiền mặt để thanh toán cho các nhà cung cấp để chiếm đoạt của Công ty Nhà hàng NB số tiền 67.674.306 đồng; Ghi khống các khoản tạm ứng của nhân viên, lập các phiếu chi giả và phiếu chi cao hơn phiếu chi thực tế để chiếm đoạt của Công ty Nhà hàng NB số tiền 114.290.163 đồng. Tổng số tiền bị cáo G đã chiếm đoạt của Công ty Nhà hàng NB là 243.943.433 đồng.

[3] Bị cáo G là người có đủ năng lực nhận biết việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm lấy tiền tiêu xài cá nhân. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre đã truy tố bị cáo G về tội “Tham ô tài sản” theo quy định tại các điểm c, d khoản 2 Điều 353 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng luật định.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức; làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an nơi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội; gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân.

[5] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân, bị cáo G không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo G được hưởng là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo G tuy có thiện chí khắc phục hậu quả là đã nộp trước số tiền 5.000.000 đồng nhưng số tiền này chua đáng kể so với số tiền bị cáo chiếm đoạt là 243.943.433 đồng. Do đó, bị cáo chỉ được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo G không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi bị cáo gây ra, xét thấy việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là điều cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân lương thiện có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung.

[6] Hình phạt bổ sung: Bị cáo G phạm tội do vi phạm các quy định nghiệp vụ gắn liền với chức trách nhiệm vụ. Do đó, cần áp dụng biện pháp cấm bị cáo đảm nhiệm hành nghề kế toán một thời hạn nhất định.

[7] Về xử lý vật chứng:

Tập chứng chỉ tháng 10/2019 (469 trang), Tập chứng chỉ tháng 11/2019 (380 trang), Tập chứng chỉ tháng 12/2019 (410 trang), Tập chứng chỉ tháng 01/2020 (247 trang), Tập chứng chỉ tháng 02/2020 (160 trang), Sổ ký nhận: Bắt đầu từ ngày 30/10/2019, Sổ ký nhận: Bắt đầu từ ngày 05/12/2019, Sổ tạm ứng nội bộ: Bắt đầu từ ngày 08/02/2020, Sổ ghi doanh thu bán hàng (KT 19,5x30,5) thuộc sở hữu của Công ty Nhà hàng NB và liên quan đến hoạt động quản lý tài chính của Công ty nên cần giao trả lại cho Công ty.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

Công ty Nhà hàng NB yêu cầu bị cáo G bồi thường số tiền bị cáo đã chiếm đoạt là 243.943.433 đồng và tiền lãi đối với số tiền này từ ngày 01/3/2020 cho đến nay là 243.943.433 đồng x 10%/năm x 11 tháng = 22.361.481 đồng. Đồng thời, Công ty Nhà hàng NB yêu cầu bị cáo G trả lại số tiền tồn quỹ mà bị cáo chua giao nộp là 675.774 đồng. Yêu cầu này của Công ty Nhà hàng NB phù hợp quy định pháp luật, bị cáo G đồng ý bồi thường nên ghi nhận. Tiếp tục tạm giữ số tiền 5.000.000 đồng mà bị cáo G đã nộp tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre để đảm bảo thi hành án.

Tại phiên tòa, bị cáo G và đại diện của bị hại thỏa thuận khấu trừ khoản tiền lương tháng 02/2020 mà bị hại chưa thanh toán cho bị cáo G vào số tiền bị cáo G phải bồi thường cho bị hại. Xét thấy thỏa thuận này không liên quan đến vụ án, bị cáo G và bị hại sẽ thực hiện trong giai đoạn thi hành án sau này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong bản án.

[9] Lời phát biểu luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo G về tội danh; điều luật áp dụng; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với quy định pháp luật được Hội đồng xét xử chấp nhận. Riêng đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự không phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo G phải nộp theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo G đã tự nguyện bồi thường trước 5.000.000 đồng nên bị cáo G chỉ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với phần còn lại là 261.980.688 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Ngọc G phạm tội “Tham ô tài sản”.

1. Áp dụng các điểm c, d khoản 2 Điều 353; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Thị Ngọc G 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 353 Bộ luật Hình sự:

Cấm bị cáo Nguyễn Thị Ngọc G hành nghề kế toán trong thời hạn 02 (hai) năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Giao trả cho Công ty TNHH một thành viên Nhà hàng NB Tập chứng chỉ tháng 10/2019 (469 trang), Tập chứng chỉ tháng 11/2019 (380 trang), Tập chứng chỉ tháng 12/2019 (410 trang), Tập chứng chỉ tháng 01/2020 (247 trang), Tập chứng chỉ tháng 02/2020 (160 trang), sổ ký nhận: Bắt đầu từ ngày 30/10/2019, sổ ký nhận: Bắt đầu từ ngày 05/12/2019, Sổ tạm ứng nội bộ: Bắt đầu từ ngày 08/02/2020, sổ ghi doanh thu bán hàng (KT 19,5x30,5).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/01/2021, hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Tre quản lý).

4. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; các Điều 584, 585, 586, 588, 589 Bộ luật dân sự:

Buộc bị cáo Nguyễn Thị Ngọc G bồi thường cho Công ty TNHH một thành viên Nhà hàng NB số tiền còn lại mà bị cáo đã chiếm đoạt là 243.943.433 đồng (hai trăm bốn mươi ba triệu chín trăm bốn mươi ba ngàn bốn trăm ba mươi ba) đồng và tiền lãi là 22.361.481 (hai mươi hai triệu ba trăm sáu mươi mốt ngàn bốn trăm tám mươi mốt) đồng, tổng cộng là 266.304.914 (hai trăm sáu mươi sáu triệu ba trăm lẻ bốn ngàn chín trăm mười bốn) đồng.

Buộc bị cáo Nguyễn Thị Ngọc G trả lại cho Công ty TNHH một thành viên Nhà hàng NB số tiền tồn quỹ mà bị cáo chưa giao nộp là 675.774 (sáu trăm bảy mươi lăm ngàn bảy trăm bảy mươi bốn ngàn) đồng.

Tiếp tục tạm giữ số tiền 5.000.000 (Năm triệu) đồng mà bị cáo Nguyễn Thị Ngọc G đã nộp tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre để đảm bảo thi hành án (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/01/2021, hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Tre quản lý).

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền chua được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23, Điều 26 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Nguyễn Thị Ngọc G phải nộp là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch bị cáo Nguyễn Thị Ngọc G phải nộp là 13.099.000 (mười ba triệu không trăm chín mươi chín ngàn) đồng.

6. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mươi lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

7. Về thi hành án:

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội tham ô tài sản

Số hiệu:05/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về