TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 05/2021/HS-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 121/2020/TLST- HS, ngày 18 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2021/QĐXXST - HS ngày 08 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T, sinh ngày 06/4/1979 tại thôn D 2, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
Nơi cư trú: Thôn D 2, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn Nguyên, sinh năm 1938 và con bà Chu Thị Tám, sinh năm 1941 có vợ Đinh Thị Thúy, sinh năm 1983 và có 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2010; Tiền sự: Không;
Tiền án: Bản án số 24/2016/HSST ngày 26/4/2016 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ xử phạt 06 tháng tù về tội “Đánh bạc”; ngày 16/8/2016 chấp hành xong hình phạt tù; tháng 9/2020 chấp hành xong hình phạt bổ sung và án phí. Bản án số 93/2017/HSST ngày 28/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tháng 5/2018 chấp hành xong án phí; ngày 25/5/2019 chấp hành xong hình phạt tù.
Nhân thân: Bản án số 28/2001/HSST ngày 29/3/2001 Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Gây rối trật tự công cộng”; ngày 29/6/2001 chấp hành xong án phí. Bản án số 30/2007/HSST ngày 08/8/2007 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”; tháng 9/2018 chấp hành xong án phí. Quyết định số 3766/QĐ- UBND ngày 14/9/2010 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Quỳnh Phụ áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm chữa bệnh - giáo dục - lao động xã hội, thời hạn 12 tháng; ngày 21/9/2011 chấp hành xong.
Bị cáo T bị tạm giữ từ ngày 28/10/2020 đến ngày 30/10/2020 chuyển tạm giam đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1995; Nơi cư trú: Thôn Chính, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Người làm chứng: Ông Nguyễn Xuân T1, sinh năm 1969; Nơi cư trú: Thôn Chính, xã Thụy Chính, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Người chứng kiến: Ông Phạm Xuân T2, sinh năm 1951; Nơi cư trú: Thôn D 2, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
(Có mặt bị cáo T, vắng mặt anh Th, ông Tr, )
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 28/10/2020, tại nhà ở của Nguyễn Văn T tại thôn D 2, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, tổ công tác Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, bắt quả tang T đang bán trái phép 02 gói ma túy cho Nguyễn Văn Thắng. Thời điểm bắt quả tang còn có ông Nguyễn Xuân T1. Trước sự chứng kiến của đại diện chính quyền địa phương và ông Phạm Xuân Trường, Tổ công tác tiến hành kiểm tra, thu giữ tại túi quần bên trái phía trước Thắng đang mặc 02 gói nilon màu xanh, bên trong đều là lớp giấy tráng kim màu trắng bạc chứa chất bột màu trắng dạng cục (niêm phong ký hiệu mẫu M1). Thắng khai nhận đó là Hêrôin vừa mua của T với giá 200.000 đồng để sử dụng cho bản thân; kiểm tra, thu giữ tại túi quần bên phải phía trước T đang mặc 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng là tiền do T vừa bán 02 gói ma túy cho Thắng mà có. Ngoài ra, T còn tự nguyện giao nộp 24 gói nilon (gồm: 11 gói màu vàng bên trong là lớp giấy có mực in màu đen chứa chất bột màu trắng dạng cục; 10 gói màu xanh và 03 gói màu vàng bên trong đều là lớp giấy tráng kim màu trắng bạc chứa chất bột màu trắng dạng cục (niêm phong ký hiệu mẫu M2). T khai nhận đó là 24 gói Hêrôin để sử dụng và bán để kiếm lời. Kiểm tra phương tiện và trên người anh T1 không phát hiện, thu giữ gì.
Bản kết luận giám định số 385/KLGĐMT-PC09 ngày 29/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình kết luận:
“Vật chứng gửi giám định (M1) là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,0232 gam (không phẩy không nghìn hai trăm ba mươi hai gam).
Vật chứng gửi giám định (M2) là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,8658 gam (không phẩy tám nghìn sáu trăm năm mươi tám gam).
Heroine STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ.” Bản Cáo trạng số 03/CT- VKSQP ngày 18/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình truy tố Nguyễn Văn T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
Trong phần tranh luận, vị đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” Áp dụng điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 07 năm 09 tháng đến 08 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.0000 đồng đến 10.000.000 đồng .
Về xử lý vật chứng và án phí: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo T trình bày: Bản thân T sử dụng chất ma túy từ năm 2011. Sáng ngày 27/10/2020, T đi xe khách ra quận Lê Chân, T1 phố Hải Phòng, tìm đến khu vực đường tàu mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không quen biết, 01 gói Hêrôin với giá 1.000.000 đồng để sử dụng cho bản thân rồi mang về nhà, dùng móng tay, giấy nilon và giấy có sẵn chia số Hêrôin trên T1 26 gói nhỏ gồm 11 gói nilon màu vàng bên trong là lớp giấy có mực in màu đen, 12 gói nilon màu xanh bên trong là lớp giấy tráng kim màu trắng bạc và 03 gói nilon màu vàng bên trong là lớp giấy tráng kim màu trắng bạc và cất giấu tại đầu giường ngủ của T để bán kiếm lời. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 28/10/2020, khi T đang ở nhà thì ông Nguyễn Xuân T1 điều khiển xe máy chở Nguyễn Văn Thắng đến dừng xe ở bên ngoài. Thắng đi bộ vào trong nhà hỏi T: “Anh có ma túy không để em hai cái?”. T hiểu ý Thắng muốn mua 02 gói Hêrôin nên đồng ý bán. Thắng đưa cho T 200.000 đồng. T nhận tiền cất vào túi quần bên phải phía trước đang mặc rồi lấy 02 gói Hêrôin đựng trong giấy nilon màu xanh bán cho Thắng. Thắng nhận 02 gói Hêrôin cất vào túi quần bên trái phía trước đang mặc thì bị Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, bắt quả tang.
Lời nói sau cùng của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về chứng cứ xác định có tội: Lời khai của bị cáo T trong quá trình điều tra, truy tố phù hợp với lời trình bày của bị cáo tại phiên tòa và được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quỳnh Phụ lập hồi 11 giờ 45 phút ngày 28/10/2020 tại chỗ ở của Nguyễn Văn T tại thôn D 2, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình (bút lục số: 01 - 04); Các biên bản quản lý và biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quỳnh Phụ lập ngày 28/10/2020 tại chỗ ở của Nguyễn Văn T tại thôn D 2, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình (bút lục số: 06 - 11); Bản kết luận giám định số 385/KLGĐMT-PC09 ngày 29/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình (bút lục số 15 - 16); Bản tự khai và biên bản ghi lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Văn Thắng, người làm chứng: Anh Nguyễn Xuân T1; người chứng kiến: Ông Phạm Xuân Trường(bút lục số: 86 - 95; 101 - 105);
Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 28/10/2020 tại chỗ ở của Nguyễn Văn T tại thôn D 2, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, bị cáo Nguyễn Văn T đã có hành vi bán trái phép 0,0232 gam Heroine (Hêrôin) cho Nguyễn Văn Thắng, thu lợi bất chính số tiền 200.000 đồng bị Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, bắt quả tang. Ngoài ra, bị cáo còn tàng trữ trái phép tại chỗ ở 0,8658 gam Heroine (Hêrôin) với mục đích để bán kiếm lời, bị Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, thu giữ. Tổng khối lượng Heroine (Hêrôin) bị cáo Nguyễn Văn T bán trái phép và tàng trữ để bán trái phép là 0,889 gam (Không phẩy tám trăm tám mươi chín gam). Bị cáo Nguyễn Văn T đã tái phạm theo Bản án số 93/2017/HSST ngày 28/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
...
q) Tái phạm nguy hiểm.
… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” [3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi bán và tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo Nguyễn Văn T thực hiện là nguy hiểm cho xã hội và cho chính bản thân bị cáo, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm mất trật tự, trị an tại địa bàn nơi xảy ra vụ án.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo T1 khẩn khai báo nên bị cáo T được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội T1 khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Văn T có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị Tòa án kết án và là đối tượng nghiện ma túy.
[7] Về hình phạt chính: Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo T, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo bị cáo, tuyên truyền và phòng ngừa chung như mức hình phạt mà ông Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa là tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo T đã thực hiện.
[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên tòa, với mục đích tàng trữ chất ma túy để bán kiếm lời nên Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo T.
[9] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ tại khu vực đường tàu thuộc quận Lê Chân, T1 phố Hải Phòng nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để điều tra, xử lý.
[10] Đối với anh Nguyễn Văn Thắng đã mua 0,0232 gam Hêrôin của T nhưng Thắng chưa có tiền án, tiền sự về các hành vi liên quan đến ma túy, mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân, khối lượng ma túy không đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện Quỳnh Phụ đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính “Cảnh cáo” đối với Thắng là phù hợp với quy định pháp luật.
[11] Đối với ông Nguyễn Xuân T1 đã đi cùng Thắng nhưng không biết việc Thắng nhờ chở đi để mua ma túy nên không có căn cứ để xử lý ông T1 về hành vi đồng phạm với Thắng hoặc hành vi che giấu, không tố giác tội phạm.
[12] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy còn lại sau giám định trong phong bì số 385/KLGĐ – PC09 ngày 29/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình là vật cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định gồm: 0,0103 gam (không phẩy không nghìn một trăm linh ba gam) mẫu vật gửi giám định và toàn bộ bao gói thu của Nguyễn Văn Thắng trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định M1 và 0,6972 gam (không phẩy sáu nghìn chín trăm bẩy mươi hai gam) mẫu vật gửi giám định và toàn bộ bao gói thu của Nguyễn Văn T trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định M2. Cần tịch thu số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) để sung vào Ngân sách Nhà nước.
[13] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.
[14] Về quyền kháng cáo: Bị cáo T, anh Thắng có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
2. Áp dụng điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.
3. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 28 tháng 10 năm 2020).
Phạt tiền bị cáo Nguyễn Văn T 7.000.000 đồng (Bẩy triệu đồng).
4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng các điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định gồm: 0,0103 gam (không phẩy không nghìn một trăm linh ba gam) mẫu vật gửi giám định và toàn bộ bao gói thu của Nguyễn Văn Thắng trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định M1 và 0,6972 gam (không phẩy sáu nghìn chín trăm bẩy mươi hai gam) mẫu vật gửi giám định và toàn bộ bao gói thu của Nguyễn Văn T trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định M2. Tịch thu số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) để nộp vào Ngân sách Nhà nước (Vật chứng đang lưu tại Kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng, Phiếu nhập kho ngày 18/12/2020).
5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
6. Bị cáo Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 20 tháng 01 năm 2021). Anh Nguyễn Văn Thắng có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 05/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 05/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về