Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 29/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC HÀ, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 20/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2021.

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị T, năm sinh 1982 Địa chỉ: Thôn N, xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai - Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Vũ Văn T, năm sinh 1983 Địa chỉ: Thôn N, xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai - Vắng măt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Bùi Thị T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị T và anh Anh Vũ Văn T tự nguyện kết hôn ngày 14 tháng 9 năm 2004, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc được khoảng bẩy năm, sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh chị không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, không có tiếng nói chung trong làm ăn, phát triển kinh tế và nuôi dạy con cái, nhiều lần vợ chồng cãi chửi nhau. Tháng 5 năm 2020 chị T đã làm đơn xin ly hôn anh T, được gia đình hai bên tác động và mong muốn hàn gắn gia đình nên chị T đã tự rút đơn để vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy các con, nhưng khi về chung sống sự việc không được như mong muốn, cuộc sống vợ chồng càng mâu thuẫn, không có hạnh phúc. Nay tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị T đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Vũ Văn T.

- Về nuôi con khi ly hôn: Chị Bùi Thị T và anh Vũ Văn T có 03 con chung: Cháu Vũ Bùi Tuấn Đ, sinh ngày 20/01/ 2005; hai cháu sinh đôi là Vũ Bảo N, Vũ Bảo T, đều sinh ngày 07/7/2017 hiện nay các cháu đang ở cùng anh chị. Các cháu đều khỏe mạnh và phát triển bình thường, các cháu không được tặng cho, thừa kế tài sản gì. Khi ly hôn chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, cháu T, anh T nuôi cháu Đ cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện chị làm nghề tự do, công việc chính là buôn bán và bán hàng ăn sáng, thu nhập một tháng khoảng 6.000.000 đồng, đủ điều kiện để nuôi dưỡng con.

- Những tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn xuất trình để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện: Giấy chứng nhận kết hôn; Đơn đề nghị xác nhận hộ khẩu; Đơn đề nghị xác nhận thu nhập; Trích lục khai sinh cháu Đ, cháu N, cháu T; Giấy chứng minh nhân dân chị T; Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.

2. Đề nghị của bị đơn: Về quan hệ hôn nhân: Anh Vũ Văn T và chị Bùi Thị T tự nguyện kết hôn ngày 14 tháng 9 năm 2004, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian, sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh và chị T, không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, chị T sống không có trách nhiệm với gia đình, nhiều lần vợ chồng cãi chửi nhau, năm 2020 chị T làm đơn xin ly hôn anh, được sự tác động của mọi người anh và chị T trở về đoàn tụ nhưng cũng chỉ được một thời gian ngắn, vợ chồng sống vẫn không hòa hợp. Nay chị T làm đơn xin ly hôn, anh đồng ý ly hôn với chị T.

- Về nuôi con khi ly hôn: Anh Vũ Văn T và chị Bùi Thị T có 03 con chung: Cháu Vũ Bùi Tuấn Đ, sinh ngày 20/01/2005; hai cháu sinh đôi là cháu Vũ Bảo N, cháu Vũ Bảo T, đều sinh ngày 07/7/2017; các cháu đều khỏe mạnh và phát triển bình thường, các cháu không được tặng cho, thừa kế tài sản gì. Anh T đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được nuôi dưỡng cháu Đ, chị T nuôi dưỡng cháu N, cháu T cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, anh T không đề nghị Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện anh làm nghề tự do, thu nhập một tháng khoảng 7.000.000 đồng, đủ điều kiện để nuôi dưỡng con.

- Những tài liệu, chứng cứ do bị đơn xuất trình để chứng minh cho đề nghị của bị đơn là có căn cứ và hợp pháp: Bị đơn không có chứng cứ gì để giao nộp cho Toà án.

3. Tại Biên bản lấy ý kiến của con chưa thành niên cháu Vũ Bùi Tuấn Đ trình bày: Nếu bố mẹ cháu không chung sống với nhau mà ly hôn, thì nguyện vọng của cháu được ở với bố cháu là Vũ Văn T.

4. Ý kiến của Viện kiểm sát:

4.1. Về việc chấp hành pháp luật tố tụng:

- Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự pháp luật tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn đã thực hiện đúng theo Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn thực hiện đúng theo Điều 70 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

4.2. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan hệ hôn nhân: Giải quyết cho chị Bùi Thị T được ly hôn với anh Vũ Văn T.

- Về con chung: Giao cháu Vũ Bảo N, sinh ngày 07/7/2017; cháu Vũ Bảo T, sinh ngày 07/7/2017 cho chị Bùi Thị T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi; giao cháu Vũ Bùi Tuấn Đ, sinh ngày 20/01/2005 cho anh Vũ Văn T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Chị T và anh T không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không đề cập giải quyết.

- Về án phí và quyền kháng cáo: Tuyên án phí và quyền kháng cáo theo qui định của Pháp luật.

4.3. Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm: Không.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án các đương sự đã nhận đầy đủ các văn bản tố tụng dân sự và chấp hành đúng các quy định của pháp luật về khởi kiện, thụ lý vụ án. Tòa án tiến hành Thông báo mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, anh T đã nhận các văn bản tố tụng, nhưng không ký vào biên bản của Tòa án, anh có ý kiến không đến Tòa án và đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn của anh chị theo đề nghị của chị T. Tại phiên tòa bị đơn anh anh Vũ Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Bùi Thị T và anh Vũ Văn T là hợp pháp. Sau khi về chung sống do anh chị không hòa hợp, bất đồng trong quan điểm sống nên vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn thường xuyên cãi chửi nhau, cuộc sống không hạnh phúc. Xác minh tại địa phương nơi chị T và anh T cư trú và các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp thì: Quá trình chung sống, do không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống nên anh T và chị T đã xảy ra mâu thuẫn, cuộc sống chung không hạnh phúc, tháng 5 năm 2020 chị T đã làm đơn xin ly hôn anh T, được gia đình tác động nên chị T đã rút đơn về để vợ chồng đoàn tụ, nhưng sau thời gian đó anh chị vẫn xảy ra mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không cải thiện được. Chị T và anh T đều xác nhận trong quá trình chung sống anh chị không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, mục đích của hôn nhân không đạt được nên anh chị đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn, nhưng tại phiên tòa anh T vắng mặt. Hội đồng xét xử xét thấy: Tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T là có căn cứ, phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên cần được chấp nhận.

[3] Về nuôi con khi ly hôn: Trong quá trình chung sống chị Bùi Thị T và anh Vũ Văn T có 03 con chung: Cháu Vũ Bùi Tuấn Đ, sinh ngày 20/01/2005; cháu Vũ Bảo N, sinh ngày 07/7/2017; cháu Vũ Bảo T, sinh ngày 07/7/2017. Các cháu đều khỏe mạnh và phát triển bình thường, các cháu không được tặng cho, thừa kề tài sản gì. Sau khi ly hôn anh T và chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho anh T được nuôi cháu Đ, chị T nuôi dưỡng cháu N, cháu T cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, anh T và chị T không đề nghị Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chung.

Xác minh tại địa phương nơi chị T và anh T cư trú thì Hiện nay anh T và chị T đều làm nghề tự do, công việc chính của chị T là buôn bán và bán hàng ăn sáng, công việc chính của anh T là làm mộc, thu nhập cùng loại như vậy ở địa phương khoảng 6.000.000 đến 10.000.000 đồng/tháng. Hiện anh chị có nhà riêng và một xưởng mộc tại Thôn N, xã B, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai.

Xét về khả năng và điều kiện kinh tế, cũng như căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, thì cả anh T và chị T đều có khả năng và điều kiện nuôi dưỡng con chung, hiện anh chị có ba con chung nên việc giao con chung cho chị T và anh T cùng có trách nhiệm nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi là có căn cứ, phù hợp với khoản 1, 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên cần được chấp nhận. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở theo quy định tại khoản 1,3 Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T và anh T không yêu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chung. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về nghĩa vụ chịu án phí: Chị Bùi Thị T phải chịu: 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, khoản 1, 2 Điều 81, khoản 1,3 Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Bùi Thị T và anh Vũ Văn T.

2. Về nuôi con khi ly hôn: Giao cháu Vũ Bảo N, sinh ngày 07/7/2017; cháu Vũ Bảo T, sinh ngày 07/7/2017 cho chị Bùi Thị T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu N, cháu T đủ 18 tuổi; giao cháu Vũ Bùi Tuấn Đ, sinh ngày 20/01/ 2005 cho anh Vũ Văn T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu Đ đủ 18 tuổi, chị T và anh T không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về nghĩa vụ chịu án phí: Chị Bùi Thị T phải chịu: 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0002594 ngày 01/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Chị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

5. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 29/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Hà - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về