Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 22/04/2021 về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 22 tháng 4 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 19/2021/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2020 về việc “Ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 05/3/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2021/QĐST-HNGĐ ngày 23/3/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Nh, sinh năm 1990; Trú tại: Thôn B, xã Đ, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Hoàng Văn Đ, sinh năm 1988. Trú tại: Thôn B, xã Đ, huyện B, tỉnh Bắc Kạn ,(Đã triệu tập hợp lệ mà vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Hoàng Thị Nh trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị Nh với anh Hoàng Văn Đ xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện B, tỉnh Bắc Kạn ngày 13/11/2013. Trong quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng hòa thuận hạnh phúc. Đến khoảng tháng 5 năm 2020, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là do anh Hoàng Văn Đ uống rượu say về đánh chửi vợ, hay chơi cờ bạc không tu chí làm ăn và thường xuyên đánh chửi vô cớ. Trong thời gian chung sống với anh Hoàng Văn Đ, bản thân tôi luôn bị đe dọa và áp lực về tinh thần. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và để ổn định cuộc sống nên chị Hoàng Thị Nh yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hoàng Văn Đ theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Chị Hoàng Thị Nh và anh Hoàng Văn Đ có một con chung tên là Hoàng Đàm Trọng B sinh ngày 17/8/2018, con chung khỏe mạnh, phát triển bình thường, hiện nay đang sống cùng chị tại thôn B, xã Đ, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Khi ly hôn, chị Hoàng Thị Nh có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung và không yêu cầu anh Hoàng Văn Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị Nh xác nhận hai vợ chồng không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị Hoàng Thị Nh xác nhận hai vợ chồng không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Hoàng Văn Đ: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án không lấy được lời khai của bị đơn Hoàng Văn Đ, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng, thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo phiên hòa giải và Quyết định đưa vụ án vụ án ra xét xử, nhưng bị đơn anh Hoàng Văn Đ không đến Tòa án.

Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn chị Hoàng Thị Nh vẫn giữ nguyên yêu cầu được Ly hôn với anh Hoàng Văn Đ và yêu cầu được nuôi con chung.

- Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn tại phiên tòa phát biểu quan điểm:

+ Về việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình tố tụng, xây dựng hồ sơ và tại phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

+ Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật quy định.

+ Bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật quy định.

Về quan điểm giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

- Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Hoàng Thị Nh, cho chị Hoàng Thị Nh được ly hôn với anh Hoàng Văn Đ.

- Về con chung: Đề nghị giao con chung Hoàng Đàm Trọng B cho chị Hoàng Thị Nh trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

- Chị Hoàng Thị Nh phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về trình tự thủ tục tố tụng: Đây là vụ án Ly hôn, nuôi con chung khi Ly hôn, bị đơn anh Hoàng Văn Đ có nơi cư trú tại thôn B, xã Đ, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện B. Quá trình giải quyết vụ án do anh Hoàng Văn Đ không hợp tác và Tòa án đã tiến hành các biện pháp thông tin cho bị đơn nhưng không có kết quả, chị Nh có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án là phù hợp theo quy định tại khoản 1, khoản 4 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 208 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Bị đơn anh Hoàng Văn Đ không hợp tác với Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy định của pháp luật.

Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, do vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị Nh và anh Hoàng Văn Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện B, tỉnh Bắc Kạn vào ngày 13/11/2013 nên xác định hôn nhân của chị Hoàng Thị Nh và anh Hoàng Văn Đ là hợp pháp. Trong quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng hòa thuận hạnh phúc. Đến khoảng tháng 5 năm 2020, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là do anh Hoàng Văn Đ uống rượu say về đánh chửi vợ, hay chơi cờ bạc không tu chí làm ăn và thường xuyên đánh chửi vô cớ. Trong thời gian chung sống với anh Hoàng Văn Đ bản thân chị luôn bị đe dọa và áp lực về tinh thần. Nay chị Hoàng Thị Nh khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hoàng Văn Đ, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu xin Ly hôn của chị Hoàng Thị Nh là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, nên được chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Hoàng Thị Nh và anh Hoàng Văn Đ có 01 con chung tên là Hoàng Đàm Trọng B, sinh ngày 17/8/2018. Con chung khỏe mạnh, phát triển bình thường và hiện nay con chung đang ở cùng với chị Hoàng Thị Nh. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Hoàng Thị Nh có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Hội đồng xét xử xét thấy anh Hoàng Văn Đ không hợp tác và cũng không có ý kiến gì với Tòa án về các vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ án, do vậy để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con chung, thấy rằng yêu cầu của chị Hoàng Thị Nh là phù hợp, đồng thời phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

Chị Hoàng Thị Nh không yêu cầu anh Hoàng Văn Đ cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị Nh không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về nợ chung: Chị Hoàng Thị Nh không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Hoàng Thị Nh phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; khoản 1, khoản 4 Điều 207; khoản 2 Điều 208; Điều 227/Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

* Tuyên xử:

1. Chấp nhận đơn khởi kiện về việc xin ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn của chị Hoàng Thị Nh.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị Nh được ly hôn với anh Hoàng Văn Đ.

- Về con chung: Giao con chung là Hoàng Đàm Trọng B, sinh ngày 17/8/2018 cho chị Hoàng Thị Nh trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi con chung đủ 18 tuổi. Chị Hoàng Thị Nh không yêu cầu anh Hoàng Văn Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Hoàng Văn Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con khi cần thiết các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi yêu cầu về mức cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị Nh không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Chị Hoàng Thị Nh không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147/Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Chị Hoàng Thị Nh phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí Ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị Hoàng Thị Nh đã nộp theo biên lai số: 03794 ngày 25/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Xác nhận chị Hoàng Thị Nh đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 22/04/2021 về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Bể - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về