Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TG, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TG, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 09/TLST – HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 14 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 02/2020/QĐST - HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lò Thị E; Sinh năm 1993; Nơi ĐKNKTT: Bản TL (nay là bản H), xã NS, huyện TG, tỉnh Điện Biên. Chỗ ở hiện nay: Bản D, xã CS, huyện TG, tỉnh Điện Biên

Bị đơn: Anh Lò Văn H; Sinh năm 1992; Nơi cư trú: Bản TL (nay là bản H), xã NS, huyện TG, tỉnh Điện Biên.

(Chị E vắng mặt có lý do, H vắng mặt lần 2 không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 05/10/2020 và lời khai ngày 11/11/2020, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lò Thị E trình bày:

Về quan hệ hôn Nhân: Chị Lò Thị E và anh Lò Văn H chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2010, đến ngày 28/02/2012 đi đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã NS, huyện TG, tỉnh Điện Biên. Chị E và H kết hôn tự nguyện, không ai bị ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng gần 08 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm sống, không có tiếng nói chung, đôi khi H uống rượu say còn đánh và đuổi chị E cùng các con ra khỏi nhà, dẫn đến cuộc sống vợ chồng giữa chị với H không có hạnh phúc, chị E đã nhiều lần khuyên bảo nhưng H không thay đổi. Chị E đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ ở bản D, xã CS, huyện TG sinh sống. Chị E đã sống ly thân với H từ đầu năm 2019 cho đến nay. Từ thời điểm sống ly thân giữa chị và H không còn quan tâm đến nhau nữa. Chị E xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục cuộc sống chung với H được nữa, vì vậy chị E đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với H.

Về con chung: Chị E khai vợ chồng có 02 con chung là Lò Văn D, sinh ngày 21/4/2011 và Lò Văn Kh, sinh ngày 28/02/2013. Hiện tại cháu D và cháu Kh đang ở cùng với chị E ở bản D, xã CS, huyện TG, tỉnh Điện Biên. Khi ly hôn chị E có nguyện vọng được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cháu D và cháu Kh đến khi thành niên và có khả năng lao động. Không yêu cầu H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, tài sản riêng, nợ chung, nợ riêng: Chị E không yêu cầu Toà án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án Toà án nhân dân huyện TG đã gửi Thông báo thụ lý vụ án cho anh Lò Văn H qua đường bưu điện thể hiện bằng Phiếu báo phát của Bưu điện có chữ ký người nhận là “H”, đồng thời Tòa án cũng tiến hành niêm yết công khai Thông báo thụ lý vụ án và cùng các tài liệu chứng cứ cho anh Lò Văn H tại Nhà văn hoá bản H, Trụ sở UBND xã NS và Trụ sở Toà án nhân dân huyện TG.

Ngày 09/10/2020, Tòa án xác minh thông tin của ông Lò Văn Th (Trưởng bản H, xã NS) và ông Lò Văn N (Bí thư bản H) về sự vắng mặt của H, tình trạng hôn nhân, điều kiện nuôi con giữa H và chị E. Ông Th và ông N đều cho biết: H đang đi làm thuê, không thường xuyên có mặt ở nhà nhưng thỉnh thoảng vẫn về nhà khi gia đình có việc, công việc cụ thể H không báo với chính quyền địa phương, hiện tại H vẫn có hộ khẩu tại bản TL (nay là bản H), xã NS. Chị E và H có đăng ký kết hôn tại UBND xã NS, sau khi kết hôn chị E và H chung sống với nhau được khoảng gần 08 năm thì chị E không thấy ở cùng với H nữa, chị E đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ khoảng 01 năm nay. Mâu thuẫn giữa chị E và H bản không nắm được và cũng chưa lần nào tổ chức hòa giải cho chị E và H. Chị E và H có 02 con chung là là Lò Văn D, sinh ngày 21/4/2011 và Lò Văn Kh, sinh ngày 28/02/2013. Hiện tại cháu D và cháu Kh đang ở cùng với ông bà nội tại bản H, xã NS, thỉnh thoảng lại về ở với chị E ở bản D, xã CS, huyện TG. Chị E và H chủ yếu làm nông nghiệp và cả hai có đi làm thuê, H đi làm vẫn gửi tiền về cho bố mẹ để nuôi các con nhưng mức thu nhập của H bao nhiêu một tháng thì chính quyền không biết. Chị E và H có 01 ngôi nhà xây cấp 4 trên đất của bố mẹ, từ khi chị E về ở với bố mẹ đẻ ở bản D thì H là người quản lý và sử dụng ngôi nhà, việc H và chị E có nợ chung không thì chính quyền địa phương không rõ. Ngoài ra ông Th và ông N cũng không cho biết gì thêm.

Cùng ngày 09/10/2020, Toà án tiến hành xác minh thông tin của ông Lò Văn Giang, Trưởng Công an xã NS, huyện TG. Ông Giang cho biết: Anh Lò Văn H là công dân của xã. Hiện tại đi làm thuê không hay có mặt tại địa phương nhưng thỉnh thoảng vẫn về nhà khi gia đình có việc, H đi làm ở đâu không khai báo với chính quyền địa phương nhưng hiện tại vẫn đang có hộ khẩu thường trú tại bản TL (nay là bản H), xã NS, huyện TG. Công an xã NS cũng xác nhận ngày tháng năm sinh của anh Lò Văn H theo chứng nhận kết hôn, chứng minh thư, sổ hộ khẩu đều là một người.

Tòa án cũng tiến hành xác minh tại Trường học và tiến hành lấy lời khai để xem xét ý kiến, nguyện vọng của 02 cháu Lò Văn D và Lò Văn Kh. Đồng thời tiến hành xác minh về tình trạng hôn nhân và điều kiện nuôi con đối với chị Lò Thị E tại bản D, xã CS, huyện TG.

Ngày 26/10/2020 Tòa án đã Thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo về việc mở phiên họp đã được Tòa án niêm yết công khai tại Nhà văn hoá bản H, Ủy ban nhân dân xã NS và trụ sở Tòa án nhân dân huyện TG nhưng H vẫn cố tình vắng mặt mà không có lý do. Ngày 11/11/2020 Tòa án nhân dân huyện TG đã thông báo kết quả phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và làm thủ tục niêm yết theo quy định của pháp luật cho anh Lò Văn H. Chị E cũng đã có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải do vậy đây là vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Khoản 1, Khoản 4 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ngày 14/12/2020 Tòa án nhân dân huyện TG đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử; ngày 30/12/2020 mở phiên tòa và đã Quyết định hoãn phiên tòa số 02/QĐST - HNGĐ, ngày 30/12/2020 để đảm bảo quyền lợi cho H. Tuy nhiên đến phiên tòa lần thứ hai H vẫn vắng mặt không có lý do mặc dù đã được triệu tập hợp lệ.

Việc H cố tình không chấp hành giấy báo, giấy triệu tập không có mặt tại phiên tòa và được Tòa án đã tống đạt hợp lệ nhưng vẫn cố tình vắng mặt là tự từ bỏ quyền của mình khi tham gia tố tụng nên Tòa án nhân dân huyện TG vẫn tiến hành giải quyết theo thủ tục chung.

Chị E xin xét xử vắng mặt, trong đơn xin xét xử vắng mặt chị E vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị Tòa giải quyết các yêu cầu như trong đơn khởi kiện. Chị E xin xét xử vắng mặt, H vắng mặt lần 2 không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị E, H.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện TG: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử trong thời gian chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa cơ bản đều đã tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị E;

Về con chung: Căn cứ Điều 58, 69, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu Lò Văn D, sinh ngày 21/4/2011 và cháu Lò Văn Kh, sinh ngày 28/02/2013 cho chị E trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên và có khả năng lao động; Về quan hệ tài sản: Chị E không yêu cầu Tòa án giải quyết;

Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ quy định tại Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14, miễn án phí dân sự sơ thẩm cho chị E.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ đơn khởi kiện về việc nguyên đơn chị Lò Thị E xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con với anh Lò Văn H và các tài liệu chứng cứ kèm theo, Tòa án xác định đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn là anh Lò Văn H có hộ khẩu thường trú tại bản TL (nay là bản H), xã NS, huyện TG, tỉnh Điện Biên nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện TG theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về điều luật áp dụng: Chị Lò Thị E và anh Lò Văn H kết hôn năm 2012, Tòa án sẽ áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để xem xét tính hợp pháp của quan hệ hôn nhân và áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

[4]. Về việc xét xử vắng mặt bị đơn: Ngày 14/01/2021 Tòa án nhân dân huyện TG đã tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án. Chị E xin xét xử vắng mặt, H vắng mặt lần 2 không có lý do nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt chị E, H theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự,

[5]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lò Thị E và anh Lò Văn H kết hôn ngày 28/02/2012, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã NS, huyện TG, tỉnh Điện Biên. Chị E khai nhận hai vợ chồng kết hôn tự nguyện, không ai bị ép buộc theo quy định tại Khoản 2 Điều 9, Khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quan hệ hôn nhân của chị E và H là hợp pháp. Chị E có đơn xin ly hôn với H là do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung, đôi khi H uống rượu say còn đánh và đuổi chị E cùng các con ra khỏi nhà, dẫn đến cuộc sống vợ chồng giữa chị với H không có hạnh phúc, chị E đã nhiều lần khuyên bảo nhưng H không thay đổi. Chị E đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ ở bản D, xã CS, huyện TG sinh sống và sống ly thân với H từ đầu năm 2019 cho đến nay. Từ thời điểm sống ly thân giữa chị và H không còn quan tâm đến nhau nữa. Chị E xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục cuộc sống chung với H được nữa. Tại các biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 09/10/2020, ngày 09/11/2020 và văn bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 09/11/2020 chính quyền địa phương cũng thừa nhận việc chị E và H có mâu thuẫn nên chị E đã chuyển về nhà bố mẹ ở bản D, xã CS sống được hơn một năm nay và từ thời điểm đó cũng không thấy chị E và H về ở cùng với nhau. Hội đồng xét xử xét thấy chị E và H đã ly thân từ đầu năm 2019 cho đến nay, trong thời gian ly thân và từ thời điểm Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đến nay giữa chị E và H không đi lại thăm nom, chăm sóc lẫn nhau và cũng không điện thoại hỏi thăm nhau, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài mục đích hôn nhân không đạt được. H đã được Toà án thông báo về việc chị E xin ly hôn với anh, nhưng H không có ý kiến gì gửi cho Toà án. Ngày 11/11/2020 chị E có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải vì chị E xác định không còn tình cảm với H, chị vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị Tòa án cho ly hôn với H. Do đó việc chị E xin ly hôn với H là phù hợp với quy định tại Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Lò Thị E được ly hôn với anh Lò Văn H.

[6]. Về con chung: Chị E và H có 02 con chung là Lò Văn D, sinh ngày 21/4/2011 và Lò Văn Kh, sinh ngày 28/02/2013. Hiện tại cháu D và cháu Kh đang ở cùng với chị E ở bản D, xã CS, huyện TG, tỉnh Điện Biên. Vợ chồng ly hôn chị E đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung. Tại Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân, điều kiện nuôi con ngày 09/10/2020 chính quyền địa phương cũng xác nhận cháu D và cháu Kh ở với ông bà nội nhưng thỉnh thoảng vẫn về với chị E, H đi làm thuê vẫn có gửi tiền về cho bố mẹ để nuôi các con nhưng mức thu nhập thì không ổn định và không rõ thu nhập được bao nhiêu. Qua xác minh về điều kiện nuôi con của chị E ngày 10/11/2020 tại bản D, xã CS cháu D và cháu Khanh khi vào năm học thì ở với ông bà nội để tiện cho việc đi học nhưng thời gian gần đây chị E thường xuyên đưa đón hai cháu đi học từ NS về CS, chị E đi làm thuê có thu nhập ổn định từ 8.000.000đ đến 9.000.000đ/tháng nên sẽ đảm bảo được điều kiện nuôi dưỡng hai con chung. Tại biên bản xác minh của Thầy giáo chủ nhiệm của cháu D và cháu Kh thì các khoản đóng góp của hai cháu do chị E và ông bà nội nộp, nhưng thường xuyên vẫn là chị E. Tại các đơn nguyện vọng ngày 10/9/2020 và trong biên bản lấy lời khai hai cháu tại Trường tiểu học NS, cháu D và cháu Kh trình bày có nguyện vọng xin được ở với chị E, vì chị E có điều kiện và thường xuyên quan tâm, chăm sóc các cháu nhiều hơn, H ít khi quan tâm đến hai cháu. Xét đề nghị của chị E là phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp với nguyện vọng của cháu D và cháu Kh, mặt khác trong quá trình giải quyết vụ án H không có mặt tại Tòa án cũng như không có bất cứ ý kiến gì về việc nuôi dưỡng con chung. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu D và cháu Kh, Hội đồng xét xử xét thấy nên giao cháu D và cháu Kh cho chị E trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi thành niên và có khả năng lao động là phù hợp với quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Việc cấp dưỡng nuôi con chị E không yêu cầu H cấp dưỡng do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về tài sản chung, tài sản riêng, nợ chung, nợ riêng: Chị E không yêu cầu Toà án giải quyết.

[8]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, chị E phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm, tuy nhiên chị E là người dân tộc thiểu số cư trú tại Bản D, xã CS, huyện TG, tỉnh Điện Biên thuộc xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Căn cứ điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chị E được miễn án phí DSST.

[9]. Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TG là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 271; Điều 272; Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự;

- Căn cứ khoản 2 Điều 9, khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;

- Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56; khoản 1, khoản 2 Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án .

1. Tuyên xử: Nguyên đơn chị Lò Thị E được ly hôn với bị đơn anh Lò Văn H.

2. Về con chung: Giao hai cháu Lò Văn D, sinh ngày 21/4/2011 và Lò Văn Kh, sinh ngày 28/02/2013 cho chị E trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi thành niên và có khả năng lao động. Chị E không yêu cầu H phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Lò Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Trường hợp anh Lò Văn H lợi dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì chị E có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của H.

Vì lợi ích của các con khi có lý do chính đáng, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, tài sản riêng, nợ chung, nợ riêng: Chị E không yêu cầu Toà án giải quyết.

4. Về án phí: Chị E được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Lò Thị E được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (14/01/2021). Anh Lò Văn H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án chính hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về