Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/01/2021 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 11 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 583/2020/TLST-HN ngày 20 tháng 11 năm 2020 về việc “tranh chấp xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 194/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2020 giữa các đương S:

1/. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Hồng T, sinh năm 1982.

Địa chỉ: ấp PM, xã ĐTA, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

2/. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1975 Địa chỉ: ấp PM, xã ĐTA, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị T và anh S có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 09/11/2020, lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Trần Thị Hồng T và bị đơn anh Nguyễn Văn S thống nhất trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị T và anh S chung sống với nhau vào năm 1999. Mặc dù không có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán tại địa phương, nhưng anh chị chung sống với nhau hoàn toàn trên tinh thần tự nguyện, đến nay anh chị đã có con chung, nhưng vẫn chưa đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật.

Nguyên nhân mâu thuẫn chị T xác định: thời gian đầu vợ chồng sống với nhau rất hạnh phúc. Thời gian sau này vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân là do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, mỗi lần anh S nhậu say về thường xuyên kiếm chuyện với chị, nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Anh chị đã ly thân từ khoảng 06 tháng nay. Hiện tại vợ chồng không thể hàn gắn được mâu thuẫn với nhau, và chị cũng không còn tình cảm gì với chồng chị nữa, nên chị yêu cầu xin ly hôn với chồng chị là anh Nguyễn Văn S.

Nguyên nhân mâu thuẫn anh S xác định: thời gian đầu vợ chồng sống với nhau rất hạnh phúc. Thời gian sau này vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân là do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Anh chị đã ly thân từ khoảng 06 tháng nay. Hiện tại vợ chồng không thể hàn gắn được mâu thuẫn với nhau, nên anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu của vợ anh là Trần Thị Hồng T.

Về con chung chị T và anh S thống nhất xác định: vợ chồng anh chị có 02 người con chung là Nguyễn Duy Th, sinh ngày 15/10/2000 và Nguyễn Đang Th, sinh ngày 09/10/2002. Hiện cả hai con đều đã trưởng thành, có khả năng tự lo lắng, chăm sóc cho bản thân. Khi ly hôn anh chị không yêu cầu Tòa án xem xét về nghĩa vụ nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: chị T và anh S xác định vợ chồng anh chị tự thỏa thuận, khi ly hôn anh chị không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về nợ: chị T và anh S xác định vợ chồng anh chị không có nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng anh chị. Khi ly hôn anh chị không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của các đương S là đúng là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: chị T và anh S chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị T và anh S.

Về con chung: Do cả hai người con của chị T và anh S đều đã trưởng thành, anh chị không đặt ra yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Do chị T và anh S không đặt ra yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân gia đình thì chị T phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị T có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh S. Anh S có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

Chị T và anh S có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị T và anh S.

[2] Về nội dung vụ án: chị T và anh S chung sống với nhau vào khoảng năm 1999, hôn nhân trên tinh thần tự nguyện, đến nay anh chị đã có con chung nhưng vẫn chưa đi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn và đã ly thân cách đây khoảng 06 tháng. Quá trình tố tụng thì cả hai anh chị đều có mong muốn được ly hôn với nhau.

Hội đồng xét xử xét thấy: Việc chị T và anh S chung sống với nhau như vợ chồng mà không đi đăng ký kết hôn là đã vi phạm khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”.

Khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng…” Do đó theo quy định của pháp luật thì hôn nhân giữa chị T và anh S không có giá trị pháp lý, không được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nay chị T xin ly hôn với anh S thì Hội đồng xét xử không tuyên giải quyết cho chị T và anh S ly hôn với nhau, mà cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị T và anh S là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định tại khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về nuôi con chung: vợ chồng chị T và anh S có 02 người con chung là Nguyễn Duy Thanh, sinh ngày 15/10/2000 và Nguyễn Đang Thanh, sinh ngày 09/10/2002. Hiện cả hai con đều đã trưởng thành, có khả năng tự lo lắng, chăm sóc cho bản thân. Khi ly hôn anh chị không yêu cầu xem xét về nghĩa vụ nuôi con và cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: chị T và anh S không đặt ra yêu cầu, nên nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm chị T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận chị Trần Thị Hồng T và anh Nguyễn Văn S là vợ chồng.

2/. Về nuôi con chung: Không đặt ra xem xét giải quyết.

3/. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.

4/. Về án phí hôn nhân và gia đình: chị Trần Thị Hồng T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0008085 ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân S huyện Đông Hải.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị Trần Thị Hồng T và anh Nguyễn Văn S biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về