TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KONG CHRO, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 05/2020/HSST NGÀY 30/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2020/HSST, ngày 15 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2020/QĐXXST-HS, ngày 02/6/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2020/HSST-QĐ, ngày 16/6/2020 đối với bị cáo:
Lê Quốc V, sinh ngày 16/6/1991 tại Đak Pơ - Gia Lai; Nơi cư trú: Thôn An Hòa, xã Phú An, huyện Đak Pơ, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; Con ông Lê Văn P, sinh năm 1954 và bà Lê Thị N, sinh năm 1955; Bị cáo có vợ là Trần Thị Thu H, sinh năm 1989; Trú tại: Thôn An Hòa, xã Phú An, huyện Đak Pơ, tỉnh Gia Lai, bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2014 và con nhỏ 2017; Tiền án: Bị cáo có 01 tiền án, ngày 04/4/2019 bị Tòa án nhân dân thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai xử phạt 06 tháng tù về tội “Bắt người trái pháp luật”; Tiền sự: Không; nhân thân: xấu. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1969; Trú tại: Tổ 7, phường An Bình, thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
2. Anh Lê Quốc Đ, sinh năm 1993; Trú tại: Tổ 4, phường Tây Sơn, thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
3. Bà Phạm Thị X, sinh năm 1975; Trú tại: Tổ dân phố 2, thị trấn Kông Chro, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai. vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 19/12/2019, tổ công tác Công an huyện Kông Chro phối hợp với Công an thị trấn Kông Chro tiến hành kiểm tra hành chính tại quán Karaoke N thuộc tổ dân phố 2 thị trấn Kông Chro. Tổ công tác kiểm tra tại phòng VIP3 thì phát hiện Lê Quốc V đang cầm 01 gói nilon màu trong suốt, hình chữ nhật, bên trong có chứa chất rắn màu trắng dạng tinh thể; khi nhìn thấy lực lượng công an kiểm tra V đã thả gói ni lon xuống nền nhà tại vị trí mà V ngồi. Quá trình kiểm tra, tổ công tác đã tiến hành test ma túy đối với Lê Quốc V, Lê Quốc Đ và Nguyễn Văn V là những đối tượng đã sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng VIP3. Kết quả cả 03 đối tượng trên đều dương tính với chất ma túy Methamphetamine (ma túy đá). Tổ công tác Công an huyện Kông Chro đã tiến hành lập biên bản thu giữ tại chỗ ngồi của Vũ 01 gói nilon màu trong suốt, hình chữ nhật, bên trong có chứa chất rắn màu trắng dạng tinh thể (nghi là ma túy đá); tại chỗ ngồi của Đ01 gói nilon màu trắng bạc, hình chữ nhật, bên trong có chứa chất rắn (nghi là có Mỹ); 01 chai nhựa nhãn hiệu Number 1, loại 330ml, bên trong chứa nước; 01 ống thủy tình hình tẩu thuốc; 01 ống nhựa màu trắng, được nối vào trong chai nước và 01 ống thủy tình hình tẩu thuốc đã bị vỡ phần đầu là dụng cụ để các đối tượng sử dụng chất ma túy.
Vật chứng thu giữ nghi là ma túy được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật để phục vụ công tác giám định.
Căn cứ kết luận giám định số 94/KLGĐ ngày 31/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, kết luận chất màu trắng, dạng tinh thể trong 01 gói nilon thu giữ của Lê Quốc V là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1273 gam.
Căn cứ kết luận giám định số 30/C09C(Đ4) ngày 15/01/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng, kết luận mẫu thực vật khô đựng trong gói ni lon thu giữ của Lê Quốc Đạt không có chất ma túy, khối lượng 3,876 gam.
Tại bản Cáo trạng số: 04/CT-VKS, ngày 13 tháng 5 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Lê Quốc V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Kông Chro vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Lê Quốc V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Quốc V từ 15 đến 18 tháng tù; về hình phạt bổ sung xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên không áp dụng.
Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn nêu các ý kiến về xử lý vật chứng và án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kông Chro, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện Kông Chro, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì đối với hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo được xác định theo lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa như sau: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 19/12/2019, tổ công tác Công an huyện Kông Chro tiến hành kiểm tra hành chính tại quán Karaoke N thuộc tổ dân phố 2 thị trấn Kông Chro. Khi kiểm tra tại phòng VIP3 thì phát hiện Lê Quốc V đang cầm trên tay 01 gói ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1273 gam; khi thấy lực lượng Công an, Lê Quốc V đã thả gói ma túy xuống nền nhà nhằm phi tang. Hành vi của Lê Quốc V đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Việc các đối tượng Lê Quốc V, Nguyễn Văn V và Lê Quốc Đ sử dụng trái phép chất ma túy vào ngày 19/12/2019 tại quán Karaoke N là hoàn toàn tự nguyện, không có ai ép buộc, rủ rê, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật.
Hành vi nêu trên của Lê Quốc V là nguy hiểm cho xã hội, đã phạm vào khoản 2 Điều 3 Luật phòng, chống ma túy năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm 2008. Hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo với lời khai của những người làm chứng thấy phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Lê Quốc V đã phạm vào tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 1249 của Bộ luật hình sự.
Xét nhân thân và hành vi phạm tội của bị cáo Lê Quốc V thấy rằng: Bị cáo là người đã có gia đình vợ con nhưng lại không chịu tu chí làm ăn chăm lo phát triển kinh tế gia đình và chấp hành tốt pháp luật. Nhân thân bị cáo ngày 04/4/2019 bị Tòa án nhân dân thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai xử phạt 06 tháng tù về tội “Bắt người trái pháp luật” đã chấp hành xong hình phạt nhưng chưa được xóa án tích, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân chăm lo làm ăn phát triển kinh tế gia đình và chấp hành tốt pháp luật mà còn tiếp tục phạm tội. Để thỏa mãn nhu cầu cá nhân bị cáo đã tàng trữ trái phép 01 gói ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1273 gam, sau khi giám định khối lượng ma túy còn lại là 0,1041 gam. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vì động cơ mục đích để sử dụng nên vẫn thực hiện. Bị cáo chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội do cố ý là tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xét nhân thân và hành vi phạm tội của bị cáo Lê Quốc V thấy cần phải xử lý một cách nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo được cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội; đồng thời cũng cần xem xét cho bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân là lao động chính, vợ không có nghề nghiệp, con còn nhỏ, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lê Quốc V, Nguyễn Văn V và Lê Quốc Đ, Công an huyện Kông Chro đã xử phạt hành chính bị cáo Lê Quốc V, người làm chứng Nguyễn Văn V và Lê Quốc Đ mỗi người 750.000 đồng là phù hợp.
Ngoài ra tại phiên tòa bị cáo Lê Quốc V khai nguồn gốc ma túy trên là của đối tượng H cho bị cáo khi gặp nhau tại Quy Nhơn, Bình Định nhưng bản thân bị cáo không xác định được lý lịch, nhân thân của đối tượng H nên không có căn cứ điều tra xử lý đối tượng Hùng.
Trong quá trình điều tra, Lê Quốc V và Lê Quốc Đ khai Nguyễn Văn V có yêu cầu đưa cho V số tiền 3.000.000 đồng để lo không bị xử lý hình sự; V, Đ đã đưa trước cho V số tiền 2.000.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo và người làm chứng Nguyễn Văn V khai nhận số tiền trên đã dùng để nộp phạt vi phạm hình chính. Vụ việc đang được Cơ quan điều tra thụ lý tố giác để giải quyết, Hội đồng xét xử không đề cập trong vụ án này.
Đối với bà Phạm Thị X là chủ quán Karaoke N, bà X không biết việc các đối tượng thuê phòng Karaoke để sử dụng trái phép chất ma túy nên cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ.
[3]. Về vật chứng của vụ án:
- 01 gói ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1273 gam, sau khi giám định khối lượng ma túy còn lại là 0,1041 gam được niêm phong trong phong bì công văn số 94/PC09 ngày 31/12/2019;
- 01 gói thực vật khô, không có chất ma túy, khối lượng 3,876 gam, sau khi giám định khối lượng thực vật khô còn lại là 2,493 gam được niêm phong trong phong bì niêm phong số 30/C09C(Đ4).
- 01 chai nhựa nhãn hiệu Number 1, loại 330ml, bên trong chứa nước;
- 01 ống thủy tình hình tẩu thuốc; 01 ống nhựa màu trắng, được nối vào trong chai nước và 01 ống thủy tình hình tẩu thuốc đã bị vỡ phần đầu;
Vật chứng nêu trên hiện đang được bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Kông Chro cần tịch thu tiêu hủy.
[4]. Về hành phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận, do đó không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
[5]. Về án phí: Bị cáo Lê Quốc V phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lê Quốc V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; các điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Lê Quốc V 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.
3. Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1273 gam, sau khi giám định khối lượng ma túy còn lại là 0,1041 gam được niêm phong trong phong bì công văn số 94/PC09 ngày 31/12/2019; 01 gói thực vật khô, không có chất ma túy, khối lượng 3,876 gam, sau khi giám định khối lượng thực vật khô còn lại là 2,493 gam được niêm phong trong phong bì niêm phong số 30/C09C(Đ4); 01 chai nhựa nhãn hiệu Number 1, loại 330ml, bên trong chứa nước; 01 ống thủy tình hình tẩu thuốc; 01 ống nhựa màu trắng, được nối vào trong chai nước và 01 ống thủy tình hình tẩu thuốc đã bị vỡ phần đầu. Vật chứng nêu trên hiện ở tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai.
(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14/5/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kông Chro và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kông Chro).
4. Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Lê Quốc V phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.
Bản án 05/2020/HSST ngày 30/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 05/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kông Chro - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/06/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về