Bản án 05/2020/HS-ST ngày 04/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THỦY, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 05/2020/HS-ST NGÀY 04/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 02 năm 2020, tại Tòa án nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2020/HSST ngày 08/01/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2020/QĐXXST-HS ngày 14/01/2020 đối với:

1. Bị cáo Nguyễn Sơn H(Tên gọi khác: T), sinh ngày 27/10/1989 tại Cần Thơ. Nơi cư trú: đường D, khu vực 1, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ; Trình độ học vấn: 08/12; Nghề nghiệp: Phụ hồ; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Phật giáo. Con của ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1956 và bà Thị N; Bản thân chưa có vợ con; Tiền án: 01 lần, ngày 27/7/2017 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xon g vào ngày 28/9/2018; Tiền sự: Không; Nhân thân của bị cáo: Ngày 28/3/2010 bị Công an phường A, quận B xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi chống người thi hành công vụ; Ngày 28/4/2010 bị Công an phường A , quận B xử phạt 200.000 đồng về hành vi gây rối trật tự công cộng; Ngày 02/5/2010 bị Công an phường A, quận B xử phạt 200.000 đồng về hành vi ném gạch đá vào nhà người khác; Ngày 14/9/2010 bị Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/4/2013; Ngày 01/4/2014 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/9/2014 . Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 04/11/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ . Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Bị hại:

- Anh Nguyễn Trần Minh T, sinh năm 1980; Trú tại đường T, khu vực 4, N, quận T, thành phố Cần Thơ; Vắng mặt.

- Ông Hà Minh C, sinh năm 1973; Trú tại đường D, khu vực 2, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ; Vắng mặt.

- Em Phan Thanh Q, sinh năm 2003; Trú tại đường T, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ; Người giám hộ(Cha của em Q): Ông Phan Thanh B; Vắng mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1956; Trú tại đường D, khu vực 1, phường T, quận T thành phố Cần Thơ; Vắng mặt.

- Ông Huỳnh Minh T, sinh năm 1973; Trú tại đường C, phường H, quận K, thành phố Cần Thơ; Vắng mặt.

- Anh Huỳnh Thế N, sinh năm 1985; Trú tại đường D, khu vực 1, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thời gian từ ngày 20/10/2019 đến ngày 28/10/2019 H đã cùng một số đối tượng khác thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn quận T, thành phố Cần Thơ như sau:

Vụ thứ nhất: Vào sáng ngày 20/10/2019 Nguyễn Sơn H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 83H3-8818 chạy vào đường T, khu vực 3, phường N, quận T, thành phố Cần Thơ thì thấy có một công trình nhà ở đang thi công tại địa chỉ đường T, khu vực 3, phường N, quận T do anh Nguyễn Trần Minh T làm chủ. Bị cáo thấy không có người trông coi tài sản nên nảy sinh ý định vào công trình tìm tài sản để trộm cắp. H dừng xe trước công trình và đi vào lấy trộm được 01 chiếc mô tơ điện, nhãn hiệu Toshiba, loại 3 pha, 3 kw, 2 poles màu đen, khối lượng 15kg(đã qua sử dụng) đang để trên bàn rồi mang ra để trên ba ga xe mô tô biển kiểm soát 83H3-8818. Lúc này có anh Mai Văn H đi từ công ty cấp nước Cần Thơ tại địa chỉ đường T, khu vực 3, phường N, quận T đối diện công trình qua nói chuyện với H, nói chuyện được vài câu thì H nổ máy và điều khiển xe chở chiếc mô tơ điện vừa lấy trộm được đem về cất giấu phía sau nhà của H. Tại bản kết luận định giá số 58/BKL-HĐĐG ngày 25/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Bình Thủy kết luận: 01 chiếc mô tơ điện, nhãn hiệu Toshiba, loại 3 pha, 3 kw, 2 poles, màu đen, khối lượng 15kg(đã qua sử dụng) và đơn giá 45.000 đồng/kg có giá trị là 675.000 đồng.

Vụ thứ hai: Vào sáng ngày 22/10/2019 H. (Không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Sơn H ngồi phía sau lưng lưu thông trên đường D, khu vực 2, phường T, quận T. Khi điều khiển xe đến nhà của anh Hà Minh C tại địa chỉ đường D, khu vực 2, phường T, quận T thì thấy trong sân nhà có để 01 cái bàn tròn inox, loại SUS 304, kích thước: D1.200 x H750 mm(đã qua sử dụng) nên cả hai thống nhất lấy trộm cái bàn tròn này. Sau đó, H. dừng xe lại, H xuống xe và đi đến hàng rào leo vào trong sân nhà lấy trộm cái bàn rồi lên xe cho H. chở đến bán cho anh Huỳnh Thế N được 400.000 đồng chia nhau tiêu xài cá nhân. Tại bản kết luận định giá số 62/BKL-HĐĐG ngày 04/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Bình Thủy kết luận: 01 cái bàn tròn inox, loại SUS 304, kích thước: D1.200 x H750 mm(đã qua sử dụng) có giá trị là 950.000 đồng.

Vụ thứ ba: Vào chiều ngày 28/10/2019 M( Không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Sơn H ngồi phía sau lưu thông trên đường C, phường T, quận T. Khi điều khiển xe đến cơ sở dạy thêm Khoa B tại địa chỉ đường C, phường T, quận T thì thấy có 01 chiếc xe đạp địa hình, nhãn hiệu Tomax, loại 24 inch, màu đen(đã qua sử dụng) của em Phan Thanh Q đang đậu trên lề đường trước cửa cơ sở nên cả hai thống nhất lấy trộm chiếc xe đạp này. Sau đó, M dừng xe lại, H xuống xe và trực tiếp đến lấy trộm chiếc xe đạp rồi lên xe cho M chở đến bán cho anh Huỳnh Minh T được 550.000 đồng chia nhau tiêu xài cá nhân. Tại bản kết luận định giá số 63/BKL-HĐĐG ngày 04/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Bình Thủy kết luận: 01 chiếc xe đạp địa hình, nhãn hiệu Tomax, loại 24 inch, màu đen(đã qua sử dụng) có giá trị là 1.250.000 đồng.

Quá trình điều tra, H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đối với hai người thanh niên tên H. và M, do chưa xác định được họ tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thủy sẽ tiếp tục xác minh, khi nào có đủ căn cứ sẽ tiến hành xử lý sau. Đối với Huỳnh Thế N, Huỳnh Minh T không biết các tài sản mà Nguyễn Sơn H đã bán là tài sản do trộm cắp mà có nên chưa đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đi với xe mô tô biển kiểm soát 83H3-8818, qua xác minh là của ông Nguyễn Văn D(Cha của Nguyễn Sơn H). H sử dụng xe này để đi trộm cắp tài sản thì ông D không biết nên không xử lý đối với ông D.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thủy đã ban hành các Quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 chiếc mô tơ điện, nhãn hiệu Toshiba, loại 3 pha, 3 kw, 2 poles màu đen, khối lượng 15 kg cho ông Nguyễn Trần Minh T; Trả 01 cái bàn inox, loại SUS 304, kích thước: D1.200 x H750 mm cho ông Hà Minh C; Trả 01 chiếc xe đạp địa hình, nhãn hiệu Tomax, loại 24inch màu đen cho em Phan Thanh Q và 01 xe mô tô biển kiểm soát 83H3-8818 cho ông Nguyễn Văn D.

Các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo.

Ti Bản Cáo trạng số 07/CT-VKSBT ngày 08/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thuỷ đã truy tố bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015(Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thủy vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo Bản Cáo trạng. Đồng thời phân tích hành vi phạm tội của bị cáo. Đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt và một tình tiết tăng nặng trách nhiệm là tái phạm tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Đề nghị áp dụng Điều 38, Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Bình Thủy đã trả tài sản cho các bị hại. Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, ban hành quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thủy, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thủy, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia phiên tòa không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo:

Ti phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận:

Bị cáo Nguyễn Sơn H đã thực hiện hành vi lấy trộm tài sản của người khác cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Sáng vào ngày 20/10/2019 bị cáo H điều khiển xe biển số 83H3-8818 chạy vào đường T, khu vực 3, phường N, quận T đến một công trình nhà ở đang thi công tại địa chỉ đường T, khu vực 3, phường N, quận T của anh Nguyễn Trần Minh T. H đã lợi dụng công trình nhà không có người trông coi lấy trộm 01 mô tơ điện, nhãn hiệu Toshiba màu đen khối lượng 15kg có giá trị là 675.000 đồng.

Vụ thứ hai: Sáng vào ngày 22/10/2019 một đối tượng tên H. điều khiển xe mô tô chở H đến địa chỉ nhà đường D, phường T, quận T của anh Hà Minh C. Cả hai đã lấy trộm 01 cái bàn tròn inox, loại SUS 304 có giá trị 950.000 đồng.

Vụ thứ ba: Chiều ngày 28/10/2019 một đối tượng tên M điều khiển xe mô tô chở H đến cơ sở dạy thêm Khoa B tại địa chỉ đường C, phường T, quận T. Cả hai đã lấy trộm 01 chiếc xe đạp địa hình nhãn hiệu Tomax, loại 24 inch màu đen của em Phan Thanh Q có giá trị 1.250.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản mà H lấy trộm được của các bị hại là 2.875.000 đồng. Do đó hành vi lấy trộm tài sản người khác của bị cáo H đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015(Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ truy tố bị cáo Nguyễn Sơn H theo tội danh và điều luật như Cáo trạng là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Bị cáo có nhân thân xấu. Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự(Sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Bị cáo đã bị kết án, chưa xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc trường hợp tái phạm quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự(Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp của công dân nên cần áp dụng hình phạt tù để nghiêm trị hành vi phạm tội của bị cáo. Đồng thời nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, phòng ngừa chung trong xã hội.

Bị cáo không nghề nghiệp, không thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Đi với hai đối tượng tên H. , M không rõ họ tên địa chỉ cụ thể nên đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thủy tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

[4] Về xử lý vật chứng:

Vật chứng gồm: 01 mô tơ điện, nhãn hiệu Toshiba màu đen khối lượng 15kg; 01 cái bàn tròn inox, loại SUS 304; 01 chiếc xe đạp địa hình nhãn hiệu Tomax, loại 24 inch màu đen. Đây là những tài sản mà bị cáo H đã lấy trộm của các bị hại, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thủy ra Quyết định xử lý vật chứng số 68, 72 ngày 30/10/2019 trả lại các tài sản nêu trên cho các bị hại là đúng quy định.

Đi với phương tiện phạm tội là xe mô tô biển số 83H3-8818, qua xác minh là chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn D(Cha của bị cáo). Ông D cho bị cáo mượn và không biết việc bị cáo sử dụng phương tiện này để đi trộm cắp tài sản của người khác. Cho nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thủy ra Quyết định xử lý vật chứng số 75 ngày 03/12/2019 trả lại xe mô tô này cho ông D là phù hợp.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Các bị hại là ông C, ông T, em Q và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh N, ông T không yêu cầu giải quyết trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

*Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000(Hai trăm nghìn)đồng theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015(Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Sơn H(T) phạm tội “Trộm cắp tài sản” Xử phạt bị cáo Nguyễn Sơn H 02(Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/11/2019.

Hình phạt bổ sung: Không.

2. Về xử lý vật chứng: Ghi nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thủy đã ra quyết định xử lý vật chứng trả tài sản cho các bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không giải quyết do các bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu.

4.Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000(Hai trăm nghìn)đồng.

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 20/11/2019).

Bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

322
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2020/HS-ST ngày 04/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:05/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thuỷ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về