Bản án 05/2020/HNGĐ-ST ngày 16/01/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 05/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 16 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 398/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2019/QĐXX-ST ngày 18 tháng 12 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị D - Sinh năm 1993.

ĐKHKTT: 14/1 Đặng Tiến Đ, phường Đông T, thành phố Thanh H, tỉnh Thanh Hóa.

Chỗ ở hiện nay: Căn hộ 408, chung cư A2, ngách 15/55 đường An Dương V, phường Phú T, quận Tây H, thành phố Hà Nội.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh P - Sinh năm 1990.

Địa chỉ: 14/1 Đặng Tiến Đ, phường Đông T, thành phố Thanh H, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa có mặt chị D, vắng mặt anh P.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, được bổ sung tại bản tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phạm Thị D trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Thanh P kết hôn với nhau năm 2016, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đông T, thành phố Thanh H, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, ngoài ra anh P còn ham chơi, không quan tâm đến gia đình, vợ con, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Mâu thuẫn căng thẳng nhất từ cuối năm 2017, anh chị đã sống ly thân nhau từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Mâu thuẫn của vợ chồng chị đã được hai bên gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Nay chị D xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh P.

Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là cháu Nguyễn Thảo L, sinh ngày 12/3/2018. Ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi cháu L và không yêu cầu anh P cấp dưỡng tiền nuôi con chung với chị vì hiện nay chị đang có công ăn việc làm và chỗ ở ổn định, thu nhập 13.000.000đ/tháng còn anh P chưa có công việc ổn định, cháu L đang còn nhỏ cần có sự chăm sóc của mẹ.

Về tài sản, công nợ: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh P đến Tòa án để làm bản tự khai và tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Phương không có mặt tại Tòa án để làm bản tự khai và tham gia phiên họp.

Thu thập chứng cứ tại địa phương phản ánh: Quá trình chung sống tại địa phương, chị D và anh P có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn của anh chị là do anh P chơi bời, không tu chí làm ăn nên trong cuộc sống vợ chồng có xảy ra va chạm. Cuối năm 2017, chị D không còn sinh sống tại địa phương. Nay chị D làm đơn ly hôn anh P, địa phương đề nghị Tòa án căn cứ vào mức độ mâu thuẫn của anh chị để giải quyết theo quy định của pháp luật. Anh P và chị D có một con chung là cháu Nguyễn Thảo L, sinh ngày 12/3/2018. Về tài sản, công nợ của chị D và anh P, địa phương không biết nên không cung cấp được cho Tòa án.

Tại biên bản lấy lời khai của ông Nguyễn Bá H, bố đẻ của anh P, ông H trình bày: Anh P và chị D kết hôn với nhau năm 2016, sau khi kết hôn anh chị chung sống với gia đình ông tại số nhà 14b/01 Đặng Tiến Đ, phường Đông T, thành phố Thanh H được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh P không tu chí làm ăn, chơi bời làm ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình dẫn đến vợ chồng cãi nhau, không tôn trọng nhau. Mặc dù hai bên gia đình đã hòa giải nhưng anh Phương vẫn không thay đổi. Từ cuối năm 2017, anh P và chị D đã sống ly thân nhau từ đó cho đến nay. Nay chị D làm đơn khởi kiện ly hôn anh P theo quan điểm của ông thì mâu thuẫn của anh P và chị D đã trầm trọng, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị D và anh P được ly hôn nhau. Anh P và chị D có một con chung là cháu Nguyễn Thảo L, sinh ngày 12/3/2018. Kể từ khi anh P và chị D sống ly thân, cháu L ở cùng với chị D. Nếu anh P và chị D ly hôn, ông đề nghị Tòa án giao cháu L cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng . Về tài sản, công nợ của chị D, anh P: ông không được biết nên không cung cấp được cho Tòa án. Đối với thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đương sự, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa mà Tòa án tống đạt cho anh P ông đã nhận thay và giao lại đầy đủ cho anh P tuy nhiên anh P vẫn không chấp hành và không đến Tòa án để làm việc.

Tại phiên tòa, chị D giữ nguyên yêu cầu ly hôn; về con chung: chị đề nghị Tòa án giao cháu L cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh P cấp dưỡng tiền nuôi con chung với chị; về tài sản công nợ: chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn đã tuân thủ thủ đúng quy định của pháp luật, bị đơn không đến Tòa án làm việc theo giấy triệu tập và thông báo của Tòa án là không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng. Về yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị D, giao cháu L cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, anh P không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung với chị D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Đây là tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn và bị đơn có nơi cư trú tại thành phố Thanh Hóa. Việc Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa thụ lý, giải quyết là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Bị đơn là anh Nguyễn Thanh P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, do vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh P.

[3] Về hôn nhân: Chị D và anh P kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh P ham chơi, không tu chí làm ăn, không quan tâm đến gia đình vợ con. Vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ tháng cuối năm 2017 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Mâu thuẫn của anh chị đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Anh P đã được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh đã không có mặt tại Tòa án để tham gia phiên họp chứng tỏ anh cũng không tha thiết hòa giải để đoàn tụ gia đình. Thu thập chứng cứ tại địa phương cũng như lời khai của ông Nguyễn Bá H (là bố đẻ của anh P) đều thể hiện trong cuộc sống vợ chồng giữa chị D và anh P có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn của anh chị, thời gian vợ chồng anh chị sống ly thân đúng như chị D trình bày. Nay chị D xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh P không còn, tại phiên tòa chị tha thiết đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh P. Xét thấy mâu thuẫn của anh chị đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu của chị D, cho chị được ly hôn anh P.

[4]. Về con chung: Chị D và anh P có một con chung là cháu Nguyễn Thảo L, sinh ngày 12/3/2018. Kể từ khi chị D và anh P sống ly thân cho đến nay cháu L vẫn sống cùng với mẹ, chị D vẫn nuôi dạy cháu bảo đảm về mọi mặt. Hiện nay chị D có thu nhập và chỗ ở ổn định, còn anh P chưa có thu nhập ổn định. Mặt khác cháu L đang còn nhỏ, cần được sự chăm sóc của mẹ. Vì vậy căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu L và không yêu cầu anh P cấp dưỡng tiền nuôi con chung của chị D có cơ sở để chấp nhận

[5]. Về tài sản, công nợ: Chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6]. Về án phí: Chị D phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, khoản 1 điều 273, khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 .

Về hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị D được ly hôn anh Nguyễn Thanh P.

Về con chung: Chị D và anh P có một con chung là cháu Nguyễn Thảo L, sinh ngày 12/3/2018, ly hôn giao cháu L cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, anh P không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung với chị D.

Anh P có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản, công nợ: chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí: Chị Phạm Thị D phải nộp 300.000 án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phÝ 300.000® chị đã nộp theo biên lai số AA/2017/0000461 ngày 07/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (chị D đã nộp đủ án phí).

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận (hoặc ngày niêm yết) bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2020/HNGĐ-ST ngày 16/01/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:05/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về