Bản án 05/2020/HNGĐ-ST ngày 10/06/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH V

BẢN ÁN 05/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/062020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH 

Ngày 10 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố V đưa ra xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 55/2020/HNGĐ-ST ngày 24 tháng 02 năm 2020“Về việc tranh chấp Hôn nhân gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2020/QĐXX ngày 25 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Ngọc A, sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn K, xã N, huyện T, tỉnh P; hộ khẩu thường trú: Số 4, ngõ 1 đường Hà Huy T, phường T, thành phố V, tỉnh V (có mặt).

Bị đơn: Anh Lâm Văn H; sinh năm 1987; hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 4, ngõ 1 đường Hà Huy T, phường T, thành phố V, tỉnh V (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và quá trình làm việc tại Toà án, nguyên đơn, chị Hoàng Thị Ngọc A trình bày:

Chị A và anh Lâm Văn H kết hôn tháng 8/2009. Trước khi cưới được tự do tìm hiểu, tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố V, tỉnh V. Sau khi kết hôn, chị A về làm dâu chung sống cùng gia đình anh H ở phường T, thành phố V, tỉnh V. Trong quá trình chung sống hòa thuận nhưng đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh H không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên cờ bạc không chịu làm ăn nên thường xuyên cãi nhau. Tháng 12 năm 2018 chị A bị bắt tạm giam và sau đó đi chấp hành hình phạt tù với thời hạn 01 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, đến tháng 12 năm 2019 được trở về địa phương nhưng chị A không về nhà mà về nhà bố mẹ đẻ ở tại xã N, huyện T, tỉnh P từ đó cho đến nay không ai quan tâm và có trách nhiệm với nhau. Chị A đề nghị ly hôn vì tình cảm vợ cH không còn, vợ cH không thể tiếp tục chung sống cùng nhau.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Lâm Văn T, sinh ngày 02/3/2010 và Lâm Việt C- sinh ngày 23/7/2011. Hiện nay cả hai cháu đang ở cùng anh H. Sở dĩ cả hai cháu ở với anh H là vì chị A phải đi cải tạo tại Trại giam Quyết Tiến, Tuyên Quang từ ngày 25/12/2018 đến ngày 25/12/2019. Ngay sau khi được ra trại chị A đến đón các con về nhà bố mẹ đẻ ở T nhưng anh H không cho đón. Tiếp sau đó chị A đã nhiều lần đến thăm các con nhưng anh H không cho gặp.

Ly hôn chị A đề nghị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Lâm Việt C, anh H được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Lâm Văn T. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Về tài sản chung, tài sản riêng, vay nợ, công sức: Không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn, anh Lâm Văn H trình bày: Anh H xác nhận lời trình bày của chị A về quá trình chung sống, thời gian kết hôn như chị A trình bày là đúng. Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ cH do tính cách không hợp nên thường xuyên xảy ra cãi nhau, không tôn trọng nhau nên chị A xin ly hôn, anh H đồng ý vì xác định tình cảm vợ cH không còn.

Về con chung: Vợ cH có 02 con chung như chị A trình bày, hiện nay các cháu đang ở cùng anh H vì ngày 25/12/2018 chị A bị bắt tạm giam và phải chấp hành hình phạt 01 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” đến ngày 25/12/2019 thì chị A được trở về địa phương nhưng ở tại nhà bố mẹ đẻ tại N, T, P thì các cháu vẫn ở cùng anh H. Ly hôn anh H đề nghị được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cả hai cháu mà không yêu cầu chị A phải cấp dưỡng nuôi con. Sở dĩ anh H không yêu cầu chị A phải cấp dưỡng nuôi con là vì trong thời gian các cháu ở với anh thì cuộc sống của các cháu vẫn được đảm bảo.

Về tài sản chung, tài sản riêng, vay nợ, công sức: Không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V phát biểu quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng mọi trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đối với nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ giấy triệu tập của Tòa án.

Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 56, 57, 58, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về pháp luật áp dụng trong vụ án: Đây là vụ án tranh chấp “Hôn nhân và gia đình”, do đó pháp luật được áp dụng để giải quyết vụ án là Luật Hôn nhân và gia đình; Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị Ngọc A và anh Lâm Văn H kết hôn tháng 8 năm 2009 trên cơ sở tự nguyện, hợp pháp. Sau khi kết hôn chị A và anh H ở tại nhà đất của bố mẹ cH tại đường Hà Huy T, phường T, thành phố V. Quá trình chung sống nảy sinh nhiều bất đồng, mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính cách không hợp, vợ cH không có tiếng nói chung nên chị A đề nghị ly hôn. Phía anh H đồng ý lu hôn theo như đề nghị của chị A vì xác định vợ cH không thể tiếp tục chung sống cùng nhau.

Hội đồng xét xử thấy mâu thuẫn giữa chị A và anh H đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị A xin ly hôn anh H là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó cần chấp nhận đơn khởi kiện của chị A để chị A được ly hôn anh H.

[4] Về con chung: Hai bên xác nhận vợ cH có 02 con chung là Lâm Văn T, sinh ngày 02/3/2010 và Lâm Việt C- sinh ngày 23/7/2011. Hiện nay cả hai cháu đang ở cùng anh H.

Ly hôn chị A đề nghị được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu Lâm Việt C còn anh H được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Lâm Văn T. Không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Phía anh H đề nghị được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả hai con chung của vợ cH và không yêu cầu chị A phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Hội đồng xét xử thấy nguyện vọng đề nghị được nuôi con của cả chị A và anh H là chính đáng. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của cháu Lâm Văn T có nguyện vọng muốn ở cùng anh H, cháu Lâm Việt C có nguyện vọng được ở cùng cả bố và mẹ vì không muốn bố mẹ ly hôn. Bản thân chị A hiện nay đang ở cùng bố mẹ tại xã N, T, P là công nhân có thu nhập ổn định, có đủ điều kiện để nuôi con. Do đó cần giao cho chị A được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lâm Việt C, anh H được nuôi dưỡng cháu Lâm Anh T và các bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho nhau.

[5] Về tài sản chung, tài sản riêng, vay nợ và công sức: Cả chị A và anh H đều không đề nghị giải quyết. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị A phải nộp 300.000 đồng (đã nộp theo biên lai số 0006752 ngày 24/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố V).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 57, 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị Ngọc A được ly hôn anh Lâm Văn H.

2. Về con chung: Chị Hoàng Thị Ngọc A được trực tiếp trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lâm Việt C, sinh ngày 23/7/2011. Anh Lâm Văn H được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lâm Văn T- sinh ngày 02/3/2010. Không ai được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về tài sản chung, tài sản riêng, vay nợ, công sức: Không đề nghị Tòa án giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Hoàng Thị Ngọc A phải nộp 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0006752 ngày 24/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V. Chị A đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự và luật sửa đổi một số điều của luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Đương sự có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2020/HNGĐ-ST ngày 10/06/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:05/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về