Bản án 05/2019/HSST ngày 24/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 05/2019/HSST NGÀY 24/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24/01/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 05/2018/HSST, ngày 27/12/2018, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2019/QĐXX-HSST ngày 08/01/2019 đối với các bị cáo:

1. Ngô Đình T, sinh năm 1992; Giới tính: Nam. HKTT: thôn Tư Thế, xã Trí Quả, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Bố đẻ: Ngô Văn Toàn, sinh năm 1963; Mẹ đẻ: Nguyễn Thị Hà, sinh năm 1964; Gia đình có 3 anh chị em, bị can là con thứ ba; Vợ: Hoàng Thị Oanh, sinh năm 1994; Con: 01 con, sinh năm 2018;

Tiền án: Bản án số 49 ngày 25/7/2013, của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên xử phạt 1 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1, Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngày 09/4/2014 chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 10/9/2013 chấp hành xong án phí.

Bản án số 22 ngày 24/4/2015 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1, Điều 138 BLHS năm 1999. Ngày 10/7/2016, chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 30/10/2015, chấp hành xong án phí và truy thu sung quỹ nhà nước.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 07/9/2018, bị Cơ quan CSĐT Công an thị xã Từ Sơn khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Ngày 19/12/2018 Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn đã đưa vụ án ra xét xử.

Ngày 28/9/2018, bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Phong khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 173 BLHS năm 2015; Ngày 21/01/2019 Tòa án nhân dân huyện Yên Phong đã đưa vụ án ra xét xử.

Ngày 22/01/2019 Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xét xử về tội Trộm cắp tài sản theo Điều 173 BLHS.

2. Trần Văn Th, sinh năm 1989; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; HKTT: thôn Vĩnh An, xã Vĩnh Khúc, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Bố đẻ: Trần Văn Hưng, sinh năm 1960; Mẹ đẻ: Phạm Thị Lượt, sinh năm 1953;

Gia đình có 3 anh chị em, bị can là con thứ ba; Vợ, con: Chưa có. Tiền án: Tại bản án số 32 ngày 14/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương xử phạt 36 tháng tù về tội “Cướp tài sản” theo Khoản 1, Điều 133 BLHS năm 1999. Ngày 26/11/2017 chấp hành xong hình phạt tù.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 07/9/2018, bị Cơ quan CSĐT Công an thị xã Từ Sơn khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 173 BLHS năm 2015. Ngày 19/12/2018 Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn đã đưa vụ án ra xét xử. (Bị cáo Th hiện đang kháng cáo đối với bản án này)

Ngày 28/9/2018, bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Phong khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 173 BLHS năm 2015. Ngày 21/01/2019 Tòa án nhân dân huyện Yên Phong đã đưa vụ án ra xét xử.

Ngày 22/01/2019 Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xét xử về tội Trộm cắp tài sản theo Điều 173 BLHS.

Các bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh theo Lệnh tạm giam của Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn (Có mặt tại phiên tòa)

Người bị hại: Anh Đỗ Đình Nam, sinh năm 2000; HKTT tại: thôn 8 xã Xuân Hòa, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa. (Vắng mặt)

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Quốc Thành, sinh năm 1969; Cư trú tại: thôn 8 xã Xuân Hòa, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngô Đình T và Trần Văn Th là bạn bè quen biết nhau từ trước. Khoảng 19 giờ, ngày 19/8/2018, Th đang ăn liên hoan tại Phố Thụy, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội thì T gọi điện rủ Th đi trộm cắp tài sản, Th đồng ý. Khoảng 22 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô Honda Wave màu xanh của T lên Phố Thụy, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội đón Th, sau đó, T và Th đi xe về Bắc Ninh, đi lòng vòng xem có ai sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi đi đến thôn Do Nha, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, T và Th thấy dãy nhà trọ của ông Nguyễn Văn Khang ở thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, cửa cổng không khép không khóa, xung quanh không thấy có ai, T và Th đỗ xe lại. T đi vào cổng dãy trọ thì thấy các phòng trọ đều khép cửa, không thấy có ai, tại hành lang của dãy trọ để 01 xe mô tô Yamaha Exciter BKS: 36K3-092.02 của anh Đỗ Đình Nam. T đi ra chỗ Th đang đứng nói với Th: “Không có ai đâu, vào dắt xe đi”. Th đi vào trong dãy trọ thấy 01 xe mô tô như T nói, xe không khóa cổ, khóa càng. Th dắt xe đi ra ngoài và ngồi lên xe, T điều khiển xe mô tô Honda Wave đẩy xe của Th đi. T và Th đẩy xe về hướng thôn Phương Cầu, xã Phương Liễu, khi đi qua sân bóng thôn Phương Cầu thì dừng lại. T bảo Th luồn tay vào trong đầu xe phía sau ổ khóa dứt 2 dây điện rồi đấu vào nhau, Th làm theo và thấy đèn điện xe sáng và đề xe thấy nổ máy. Sau đó, Th đi xe vừa trộm cắp được về Phố Thụy, huyện Gia Lâm thuê nhà nghỉ, còn T đi xe về nhà T. Đến sáng ngày 20/8/2018, Th đi xe đến một cửa hàng sửa xe tại Hà Nội để thay ổ khóa điện của xe. Qua mạng xã hội Facebook, Th mua BKS: 29N1-531.22 của một người không quen biết và thay vào biển kiểm soát của xe để làm phương tiện đi lại còn BKS: 36K3-092.02 Th vứt ở đâu không nhớ. Đến ngày 05/9/2018, Th đi xe mô tô trên đến cổng trường Bắc Hà ở xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn đón T. Sau đó cả hai đi trộm cắp tại huyện Yên Phong, khi đi về đến thị xã Từ Sơn thì bị Công an thị xã Từ Sơn bắt giữ cùng chiếc xe trên. Quá trình điều tra, Th và T đã tự thú khai báo hành vi trộm cắp trên địa bàn huyện Quế Võ.

Công an thị xã Từ Sơn đã thu giữ và bàn giao cho Công an huyện Quế Võ 01 xe mô tô Yamaha Exciter có số khung 0610HY612990, số máy G3D4E638415 có gắn BKS: 29N1-531.22.

Ngày 06/10/2018, anh Đỗ Đình Nam có đơn trình báo gửi Công an huyện Quế Võ về việc bị mất tài sản trên.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 76/KL ngày 08/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quế Võ kết luận: “Chiếc xe mô tô Yamaha Exciter màu đỏ đen được mua mới vào tháng 3/2018 đến thời điểm mất còn trị giá 95,83%, tương đương với số tiền 44.560.950 đồng”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì đối với kết luận định giá.

Bản cáo trạng số 03/CT-VKSQV ngày 26/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh truy tố các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ phân tích lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa phù hợp với nhau; Phù hợp với toàn bộ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, thẩm vấn làm rõ các nội dung tại phiên tòa cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với các bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Th; thay đổi quan điểm truy tố đối với bị cáo T cụ thể: Đề nghị truy tố đối với Ngô Đình T về tội Trộm cắp tài sản theo điểm g khoản 2 điều 173 BLHS và đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Ngô Đình T và Trần Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 điều 173; Điều 38; điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt Ngô Đình T từ 36 đến 42 tháng tù.

Đề nghị áp dụng khoản 1 điều 173; Điều 38; điểm s, r khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 điều 52 BLHS xử phạt: Trần Văn Th từ 20 đến 26 tháng tù.

Thời hạn tù của các bị cáo tính từ ngày bắt chấp hành hình phạt. Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo nhận tội không tham gia tranh luận đối với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt;

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Nội dung vụ án đã thể hiện rõ: Khoảng 23 giờ 30 phút, ngày 19/8/2018, tại thôn Do Nha, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Ngô Đình T và Trần Văn Th đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 xe mô tô Yamaha Exciter BKS: 36K3-092.02 trị giá 44.560.950 đồng của anh Đỗ Đình Nam.

Hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” phạm vào Điều 173 Bộ luật hình sự. Với giá trị tài sản bị chiếm đoạt và nhân thân của các bị cáo, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố Trần Văn Th về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1, điều 173 BLHS là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Đối với bị cáo Ngô Đình T ngày 20/5/2018 và ngày 02/7/2018 bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản tại địa bàn thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Hành vi này đã được Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn đưa ra xét xử tại bản án số 05/2018/HSST ngày 19/12/2018. Bản án này xác định bị cáo T là tái phạm nguy hiểm, bản án đến nay đã có hiệu lực pháp luật đối với T nên hành vi phạm tội này của T bị coi là tái phạm nguy hiểm. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát thay đổi quan điểm truy tố đối với T là có căn cứ và phù hợp nên cần chấp nhận.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến trật tự, trị an xã hội. Vì vậy cần xử phạt nghiêm mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét về vai trò của từng bị cáo thì thấy: Bị cáo T giữ vai trò chính. T là người nảy sinh ý định, rủ rê lôi kéo Th đi trộm cắp tài sản; Bị cáo Th có vai trò đồng phạm với T và Th là người trực tiếp vào trộm cắp tài sản.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy;

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo T tuy có 02 tiền án về tội Trộm cắp tài sản đến nay chưa được xóa án tích nhưng đã được xem là tình tiết định khung của hình phạt nên không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm h, khoản 1 điều 52 BLHS;

Bản án số 05/2018/HSST ngày 19/12/2018 Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn xét xử Ngô Đình T 40 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo trong bản án này cùng gần thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội tại Quế Võ nên mặc dù đến nay bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng không coi là tiền án đối với T. Về hình phạt của bản án này đã được Tòa án nhân dân huyện Yên Phong tổng hợp vào ngày 21/01/2019 đến nay bản án của Tòa án nhân dân huyện Yên Phong cũng như bản án của Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xét xử T vào ngày 22/01/2019 đều chưa có hiệu lực pháp luật nên không tổng hợp hình phạt của các bản án đã xét xử đối với bị cáo T trong bản án này là phù hợp;

Bị cáo Th có 01 tiền án đến nay chưa được xóa án tích mà lại phạm tội. Lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h, khoản 1, điều 52 BLHS;

Ngoài ra cả hai bị cáo đều có nhân thân xấu đã từng bị đưa ra xét xử nhiều lần đều về tội Trộm cắp tài sản;

Tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đã tự thú, tự khai nhận các hành vi phạm tội; Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm r, s khoản 1, điều 51 BLHS;

Bị cáo T có bố đẻ là thương binh hạng 3/4 nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 điều 51 BLHS

Từ những phân tích trên xét cần có hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mới đủ giáo dục đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo đều không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên xét không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo là phù hợp.

Về trách nhiệm dân sự: Chiếc xe đã trả lại cho người bị hại và người bị hại không có yêu cầu bồi thường gì nên không đề cập giải quyết.

Đối với chiếc BKS: 29N1-531.22 quá trình điều tra xác minh được anh Vũ Văn Chiến, sinh năm 1997 ở thôn Chi Đông, xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội là chủ sở hữu của chiếc xe Wave màu trắng đen bạc mang BKS 29N1-531.22. Anh Chiến đã bị mất chiếc xe trên vào khoảng tháng 6/2018 tại xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm. Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ đã có Công văn trao đổi với Công an huyện Gia Lâm, TP. Hà Nội và xác định đây là vật chứng của một vụ án khác nên tạm giữ để phục vụ điều tra, xác minh là phù hợp.

Đối với chiếc BKS: 36K3-092.02 của chiếc xe mô tô Yamaha Exciter bị trộm cắp, sau khi thay biển số, Th đã vứt đi ở đâu không nhớ nên không thu hồi được. Đến nay chủ xe không yêu cầu gì về việc bồi thường biển số nên không đề cập giải quyết.

Đối với chiếc xe mô tô Wave màu xanh T và Th sử dụng làm phương tiện để trộm cắp tài sản, T đã bán cho một người thanh niên ở Bắc Giang (T không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu). Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.

Đối với chiếc điện thoại T và Th sử dụng làm phương tiện để liên lạc khi phạm tội đã được xử lý trong vụ án xảy ra trên địa bàn thị xã Từ Sơn nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật; Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Ngô Đình T và Trần Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; Điều 38; Điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS;

Xử phạt: Ngô Đình T 36 (ba sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành hình phat.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 điều 52 BLHS;

Xử phạt: Trần Văn Th 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành hình phạt.

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTV Quốc Hội;

Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST;

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả bản án;

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

341
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/HSST ngày 24/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:05/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về