Bản án 05/2019/HS-ST ngày 14/01/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 05/2019/HS-ST NGÀY 14/01/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 386/2018/TLST-HS ngày 06 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:406/2018/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 85/2018/HSST-QĐ ngày 27 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:

Bùi Thị Cẩm H, sinh năm 1967 tại tỉnh Đồng Nai; thường trú: Số 3/19 khu phố N, phường Th Nh, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông không rõ và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1935; bị cáo có 05 anh chị ruột, lớn nhất sinh năm 1963, nhỏ nhất sinh năm 1965; bị cáo có chồng tên Trần Ngọc Ph, sinh năm 1965; bị cáo có 02 con ruột, lớn sinh năm 1986, nhỏ sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 10/10/2018 đến ngày 09/11/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị U, sinh năm 1957; địa chỉ: Số 51/1 khu phố T Th, phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Ngọc Ph, sinh năm 1965; địa chỉ: Số 3/19 khu phố N, phường Th Nh, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai, vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

1. Ông Lê Tiến Đ, sinh năm 1993; địa chỉ: Số 51/1 khu phố T Th, phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

2. Bà Nguyễn Ánh V, sinh năm 1989; địa chỉ: Số 2/20 khu phố T Ph 1, phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Thị Cẩm H làm nội trợ và sống chung cùng gia đình tại địa chỉ số 3/19 khu phố N, phường Th Nh, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai. Sáng ngày 10/10/2018, Bùi Thị Cẩm H đi tìm những người nhẹ dạ, cả tin để lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên H điều khiển xe mô tô hiệu Symex biển số 67N3-1569 từ nhà đến phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, H đến gần khu vực nhà văn hóa T B thuộc tổ M, khu phố T Ph 1, phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương nhìn thấy bà Nguyễn Thị U ngồi ghế đá một mình trước nhà, trên tai bà U có đeo một đôi bông tai màu vàng nên H đến tiếp cận nói chuyện với bà U để tìm cách chiếm đoạt tài sản của bà U. Trong lúc nói chuyện H biết bà U đang thiếu nợ ngân hàng 100.000.000 đồng phải thế chấp giấy tờ nhà đất, không có tiền để trả nên H nói dối với bà U là H vừa trúng 01 tờ vé số độc đắc và 01 tờ vé số an ủi, H hứa cho bà U 500.000.000 đồng để trả nợ nhưng bà U phải đưa trước 5.000.000 đồng để cúng Mẹ Quan Âm thì mới nhận được tiền. Nghe vậy, bà U tin là thật nhưng bà U nói chỉ có 1.500.000 đồng, H cũng đồng ý nhận. Sau đó H điều khiển xe mô tô hiệu Symex biển số 67N3-1569 chở bà U đến đình thần T L thuộc phường T Đ H để cúng. Trên đường đi H dừng xe dọc đường, đưa cho bà U 10.000 đồng, kêu bà U mua phong bì ghi tên Nguyễn Thị U. Đến nơi H bảo bà U đưa tiền bỏ vào phong bì có ghi tên Nguyễn Thị U. Lúc này, H giả vờ gọi điện cho bạn và kêu bà U đưa thêm tiền cho đủ 2.200.000 đồng để cúng Mẹ Quan Âm. Do bà U không có tiền nên H kêu bà U đi bán đôi bông tai bằng vàng, H sẽ mua cho U một đôi bông tai khác thì U đồng ý. H chở U đến tiệm vàng K Th tại địa chỉ số 2/20 khu phố T Ph 1, phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương để bán vàng. Bà U vào tiệm vàng gặp Nguyễn Ánh V bán đôi bông tai bằng vàng được 760.000 đồng. Bán vàng xong, H chở bà U đi được 100 mét thì H dừng xe lại kêu U đưa cho H 700.000 đồng, lúc này H xé một góc bì thư để bỏ tiền vào. Sau khi chiếm đoạt tiền xong, H chở bà U đi tiếp để tìm cơ hội bỏ bà U lại rồi tẩu thoát. Khi cả hai đến khu vực gần đình thần T N thuộc phường T B thì H bị con trai bà U là ông Lê Tiến Đ cùng một số người dân phát hiện bắt giữ cùng vật chứng, đưa về trụ sở Công an phường T B làm việc, qua làm việc Bùi Thị Cẩm H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên Công an phường T B lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tang vật tạm giữ gồm: 01 (một) bì thư bị rách một góc có tên của bà Nguyễn Thị U, 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, model 1010 có sim số 01638241721, 01 (một) xe mô tô hiệu Symex, biển số 67N3-1569 và 2.209.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 391/CT-VKS ngày 04 tháng 12 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Bùi Thị Cẩm H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Bùi Thị Cẩm H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 174; Điều 36; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo Bùi Thị Cẩm H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng cải tạo không giam giữ.

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, model 1010 sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Symex, biển số 67N3-1569 là tài sản chung của bị cáo H và chồng tên là Trần Ngọc Ph, ông Ph không biết H sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu ½ giá trị xe để sung vào Ngân sách Nhà nước và trả lại ½ giá trị xe cho ông Trần Ngọc Ph.

- Đối với 01 (một) bì thư bị rách một góc có tên của bà Nguyễn Thị U và sim số 01638241721 không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 9.000.000 đồng, không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã trả lại cho bị cáo Bùi Thị Cẩm H.

* Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án là 2.200.000 đồng, hiện đã thu hồi trả lại cho bị hại Nguyễn Thị U, bị hại không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Bùi Thị Cẩm H làm nội trợ và sống chung cùng gia đình tại địa chỉ số 3/19 khu phố N, phường Th Nh, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai. Sáng ngày 10/10/2018, Bùi Thị Cẩm H đi tìm những người nhẹ dạ, cả tin để lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên H điều khiển xe mô tô hiệu Symex biển số 67N3-1569 từ nhà đến phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, H đến gần khu vực nhà văn hóa T B thuộc tổ M, khu phố T Ph 1, phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương nhìn thấy bà Nguyễn Thị U ngồi ghế đá một mình trước nhà, trên tai bà U có đeo một đôi bông tai màu vàng nên H đến tiếp cận nói chuyện với bà U để tìm cách chiếm đoạt tài sản của bà U. Trong lúc nói chuyện H biết bà U đang thiếu nợ ngân hàng 100.000.000 đồng phải thế chấp giấy tờ nhà đất, không có tiền để trả nên H nói dối với bà U là H vừa trúng 01 tờ vé số độc đắc và 01 tờ vé số an ủi, H hứa cho bà U 500.000.000 đồng để trả nợ nhưng bà U phải đưa trước 5.000.000 đồng để cúng Mẹ Quan Âm thì mới nhận được tiền. Nghe vậy, bà U tin là thật nhưng bà U nói chỉ có 1.500.000 đồng, H cũng đồng ý nhận. Sau đó H điều khiển xe mô tô hiệu Symex biển số 67N3-1569 chở bà U đến đình thần T L thuộc phường T Đ H để cúng. Trên đường đi H dừng xe dọc đường, đưa cho bà U 10.000 đồng, kêu bà U mua phong bì ghi tên Nguyễn Thị U. Đến nơi H bảo bà U đưa tiền bỏ vào phong bì có ghi tên Nguyễn Thị U. Lúc này, H giả vờ gọi điện cho bạn và kêu bà U đưa thêm tiền cho đủ 2.200.000 đồng để cúng Mẹ Quan Âm. Do bà U không có tiền nên H kêu bà U đi bán đôi bông tai bằng vàng, H sẽ mua cho U một đôi bông tai khác thì U đồng ý. H chở U đến tiệm vàng K Th tại địa chỉ số 2/20 khu phố T Ph 1, phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương để bán vàng. Bà U vào tiệm vàng gặp Nguyễn Ánh V bán đôi bông tai bằng vàng được 760.000 đồng. Bán vàng xong, H chở bà U đi được 100 mét thì H dừng xe lại kêu U đưa cho H 700.000 đồng, lúc này H xé một góc bì thư để bỏ tiền vào. Sau khi chiếm đoạt tiền xong, H chở bà U đi tiếp để tìm cơ hội bỏ bà U lại rồi tẩu thoát. Khi cả hai đến khu vực gần đình thần T N thuộc phường T B thì H bị con trai bà U là ông Lê Tiến Đ cùng một số người dân phát hiện bắt giữ cùng vật chứng, đưa về trụ sở Công an phường T B làm việc, qua làm việc Bùi Thị Cẩm H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên Công an phường T B lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tổng số tiền Bùi Thị Cẩm H chiếm đoạt của bị hại Nguyễn Thị U là 2.200.000 đồng.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.0000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168,169, 170, 171, 172, 173, 175 và  290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”.

Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Bùi Thị Cẩm H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản’’ theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, bị hại, người làm chứng trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, Cáo trạng số 301/CT-VKS ngày 04 tháng 12 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên truy tố bị cáo Bùi Thị Cẩm H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là ít nghiêm trọng nhưng đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ và gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về nhân thân: Bị cáo đã từng bị Tòa án xét xử về về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đã được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, bị cáo là người có trình độ học vấn thấp, đang nuôi con bị bệnh động kinh nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, model 1010 sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Symex, biển số 67N3-1569 là tài sản chung của bị cáo H và chồng tên là Trần Ngọc Ph, ông Ph không biết H sử dụng vào việc phạm tội nên cần nghị tịch thu ½ giá trị xe để sung vào Ngân sách Nhà nước và trả lại ½ giá trị xe cho ông Trần Ngọc Ph.

- Đối với 01 (một) bì thư bị rách một góc có tên của bà Nguyễn Thị U và sim số 01638241721 không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 9.000.000 đồng, không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã trả lại cho bị cáo Bùi Thị Cẩm H là đúng theo quy định của pháp luật.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án là 2.200.000 đồng, hiện đã thu hồi trả lại cho bị hại Nguyễn Thị U, bị hại không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[9] Đối với mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đưa ra đối với bị cáo, xét bị cáo có nhiều tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, phạm tội ít nghiêm trọng, có cư trú rõ ràng, trình độ học vấn thấp, đang nuôi con bị bệnh động kinh, bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, trong thời gian tại ngoại bị cáo chấp hành tốt chính sách pháp luật tại địa phương. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo đồng thời bị cáo là người lao động có thu nhập thấp nên không áp dụng quy định khấu trừ một phần thu nhập khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, có cơ sở chấp nhận.

[10] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Thị Cẩm H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 174; Điều 36; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Bùi Thị Cẩm H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ, được khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 10/10/2018 đến ngày 09/11/2018. Bị cáo còn phải tiếp tục chấp hành 01 (một) năm 02 (hai) tháng 27 (hai mươi bảy) ngày cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo về cho Ủy ban nhân dân phường Th Nh, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày Ủy ban nhân dân phường Th Nh, thành phố Bi H, tỉnh Đồng Nai nhận được Bản án và Quyết định thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, model 1010.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước ½ giá trị 01 (một) xe mô tô hiệu Symex, biển số 67N3-1569, số khung 002537, số máy VHLFM152MHV332536 và trả lại cho ông Trần Ngọc Ph ½ giá trị 01 (một) xe mô tô hiệu Symex, biển số 67N3-1569 số khung 002537, số máy VHLFM152MHV332536.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư bị rách một góc có tên của bà Nguyễn Thị U (bên trong không có tài sản) và sim số 01638241721.

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Bùi Thị Cẩm H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/HS-ST ngày 14/01/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:05/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:14/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về