Bản án 05/2018/HS-ST ngày 19/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 05/2018/HS-ST NGÀY 19/01/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 19/01/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 147/2017/TLST-HS ngày 27/10/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 147/2017/QĐXXST - HS ngày 11/12/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 147/2017/QĐST - HS ngày 25/12/2017 đối với bị cáo:

BÙI CÔNG K, tên gọi khác: Bơ, Bờm; Sinh năm 1989 tại Đà Nẵng;

Nơi đăng ký HKTT: Tổ 52, phường N, quận H, thành phố Đà Nẵng; Chỗ ở: Tổ 11B, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng;

Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 8/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Bùi Công P (đã chết) và bà Lê Thị Như L (còn sống);

-Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 117/2012/HSST ngày 31/8/2012 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xử phạt 05 (năm) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự.

Tiền sự: Chưa.

-Nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2008/HSST ngày 15/5/2008 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 05/6/2017, hiện đang tạm giam, có mặt tại phiên toà.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Chị Đặng Thị T - sinh năm: 1991; Hộ khẩu thường trú: Tổ 33, phường H, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Chỗ ở: Phòng 501, Khu 2B, Chung cư P, phường H, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).

- Chị Lâm Thị Kim P - sinh năm: 1994; Hộ khẩu thường trú: Tổ 06, phường V, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng; Chỗ ở: K1074 đường T, tổ 11, phường H, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng và số 361 đường Đ, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng (có mặt).

- Anh Lê Văn T - sinh năm: 1987; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 177 đường B, Tổ 57, phường H, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).

* Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn D- sinh năm: 1971; Hộ khẩu thường trú: Tổ 75, phường V, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ ngày 05/6/2017 tại ngã tư đường Hoàng Hoa Thám - Lê Duẩn, phường Tân Chính, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng phát hiện, lập biên bản vi phạm hành chính đối với Đặng Thị T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng tạm giữ của T: 01 gói ny lông bên trong có chưa 03 (ba) viên nén màu xanh, được niêm phong, ký hiệu: B. Số ma túy thuốc lắc này T khai mua của Bùi Công K về sử dụng.

Đến khoảng 21 giờ 45 phút cùng ngày tại ngã tư đường Hùng Vương - Hàm Nghi, phường Vĩnh Trung, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng phát hiện bắt quả tang Bùi Công K đang cất giấu 30 (ba mươi) viên nén màu xanh (K khai là ma túy thuốc lắc) trong người khi đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 43G1 - 241.40 chở Lâm Thị Kim P tham gia giao thông trên đường.

Vật chứng tạm giữ của K:

- Thu trong túi quần phía trước bên phải 01 gói ny lông bên trong có chứa 10 (mười) viên nén màu xanh; trong túi quần phía trước bên trái 01 gói thuốc hiệu “White horse” bên trong có 02 (hai) gói ny lông chứa 20 (hai mươi) viên nén màu xanh. Tất cả 02 gói được niêm phong, ký hiệu: A;

- 01 (một) điện thoại di động có dòng chữ Iphone màu trắng có imei 013851001411819 có lắp sim 0964199902 và 01 (một) điện thoại di động có dòng chữ Nokia màu vàng có imei: 352696041933093 có lắp sim 0932595153, K sử dụng để liên lạc mua bán trái phép chất ma túy.

- 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 43G1 - 241.40 do anh Lê Văn T đứng tên chủ sở hữu. Ngày 04/6/2017, anh T cho K mượn xe để đi công việc, anh T không biết việc K sử dụng xe làm phương tiện để mua bán trái phép chất ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê trả lại xe 43G1  - 241.40 cho anh T.

- 11.800.000đ, trong đó 1.200.000đ do K bán ma túy mà có, 10.000.000đ là tiền do Lâm Thị Kim P đưa cho K để cùng đi mua quần áo về kinh doanh, 600.000đ là tiền của cá nhân K dùng để tiêu xài.

* Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của K tại tổ 11B phường H, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng thu giữ: 10 (mười) bao ny lông trắng có kích thước (2 x 3) cm; 05 (năm) bao ny lông trắng có kích thước (3 x 8) cm, K dùng để phân lẻ ma túy để mua bán.

* Theo bản kết luận giám định số: 359/GĐ - MT ngày 13/6/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành ph ố Đà Nẵng kết luận: Mẫu viên nén gửi giám định có trọng lượng là A: 7,365 gam; B: 0,738 gam, đều có MDMA. MDMA là chất ma túy nằm trong Danh mục I, số thứ tự 22, Nghị định 82/2013/NĐ - CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Qua điều tra, Bùi Công K khai nhận: từ ngày 22/4/2017 đến ngày 05/6/2017, K 03 lần mua ma túy thuốc lắc của Dũng “Huế” (không rõ lai lịch) với tổng số 97 (chín mươi bảy) viên ma túy thuốc lắc với giá 26.280.000đ tại sau lưng Bến xe trung tâm thành phố Đà Nẵng, đem về sử dụng chung với bạn bè và bán cho người khác, cụ thể như sau:

Lần 1: Khoảng 22 giờ ngày 01/6/2017, K bán cho Đặng Thị T 05 viên ma túy thuốc lắc với giá 2.000.000đ tại trước nhà số 15 đường N, thành phố Đà Nẵng. T mua về sử dụng chung với bạn bè.

Lần 2: Khoảng 19 giờ 45 phút cùng ngày, tại bờ hồ đường Hàm Nghi, thành phố Đà Nẵng, K bán 03 (ba) viên ma túy thuốc lắc cho Đặng Thị T với giá 1.200.000đ. T cất giấu trong người và đi đến ngã tư đường Hoàng Hoa Thám - Lê Duẩn, phường Tân Chính, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng thì bị kiểm tra hành chính thu giữ 03 viên ma túy thuốc lắc.

Ngoài ra, khoảng 00 giờ ngày 02/6/2017, K bán cho một người tên Cường (không rõ lai lịch, địa chỉ) 06 viên ma túy thuốc lắc với giá 2.400.000đ tại phía sau quán Karaoke M trên đường Điện Biên Phủ, thành phố Đà Nẵng. Do không xác định được người mua cũng như không thu giữ được ma túy nên không đủ cơ sở để xử lý đối với K ở lần này.

Qua thử test, Bùi Công K, Lâm Thị Kim P đều dương tính với ma túy tổng hợp.

Qua điều tra, Bùi Công K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Bản Cáo trạng số 141/QĐ - VKS  ngày 26/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Bùi Công K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2, Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng giữ nguyên cáo trạng đã truy tố và căn cứ vào nhân thân, tính chất mức độ phạm tội của bị cáo đề nghị HĐXX: Áp dụng điểm b, p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Bùi Công K mức án từ 09 đến 11 năm tù.

* Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu ma túy hoàn trả sau giám định và 15 bao ny lông;

- Tịch thu sung công: 01 (một) điện thoại di động có dòng chữ Iphone màu trắng có imei 013851001411819 có lắp sim 0964199902 và 01 (một) điện thoại di động có dòng chữ Nokia màu vàng có imei: 352696041933093 có lắp sim 0932595153;

- Tịch thu sung công số tiền 1.800.000đ  là tiền bị cáo Bùi Công K thu lợi bất chính do mua bán ma túy mà có.

- Tuyên trả cho chị Lâm Thị Kim P số tiền 10.000.000đ.

Tại phiên tòa bị cáo Bùi Công K khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng nêu và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Nẵng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Bùi Công K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và của người làm chứng, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định bị cáo Bùi Công K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng số 141/QĐ - VKS  ngày 26/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Vào khoảng 21 giờ 45 phút, ngày 05/6/2017, bị cáo Bùi Công K bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 7,365g ma túy MDMA. Bị cáo Bùi Công K khai nhận đã 03 lần mua ma tuý thuốc lắc của đối tượng tên Dũng “Huế” sau lưng Bến xe Trung tâm thành phố Đà Nẵng (không rõ họ, tên địa chỉ) để sử dụng và 02 lần bán cho Đặng Thị T và người khác, cụ thể: Ngày 01/6/2017, K bán cho T 05 viên ma túy thuốc lắc giá 2.000.000đ tại trước số nhà 15 đường N, thành phố Đà Nẵng và khoảng 20 giờ ngày 05/6/2017, K bán cho T 03 viên ma túy thuốc lắc với giá 1.200.000đ tại bờ hồ đường Hàm Nghi, thành phố Đà Nẵng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những gây mất trật tự trị an, trực tiếp xâm hại đến quyền quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý mà còn ảnh hưởng xấu đến trí lực và sức khoẻ của con người. Trong khoảng thời gian từ ngày 22/4/2017 đến ngày bị bắt 05/6/2017, bị cáo đã 03 lần mua ma túy thuốc lắc của đối tượng tên Dũng “Huế” (không rõ lai lịch) với tổng cộng là 97 viên để sử dụng và bán lại cho Đặng Thị T 02 lần, và bán cho Cường (không rõ lai lịch) nhằm mục đích kiếm lời nên thuộc tình tiết định khung “Phạm tội nhiều lần” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2008 bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Năm 2012, bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xử phạt 05 (năm) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự, ra tù, bị cáo không lo tu chí làm ăn mà lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng nên hành vi phạm tội của bị cáo trong lần này còn thuộc tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm p, khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Hội đồng xét xử thống nhất với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê là cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài để bị cáo có điều kiện cải tạo tu dưỡng trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Tuy nhiên tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án gồm:

- Mẫu hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 (một) bì thư số 359/GĐ - MT ngày 13/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

-  01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng - bạc, số imei 013851001411819;

-  01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, số imei: 352696041933093.

- 15 bao ny lông:

- Số tiền 11.800.000đ. Xét thấy:

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng - bạc, số imei 013851001411819 và 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, số imei: 352696041933093 của bị cáo dùng vào việc liên lạc mua bán ma tuý nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với số tiền 11.800.000đ, trong đó có 10.000.000đ là tiền của chị Lâm Thị Kim P không liên quan đến việc mua bán ma túy của Bùi Công K nên cần tuyên trả cho chị P; Đối với số tiền 1.800.000đ là tiền bị cáo bán ma túy cho Đặng Thị T nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Ma túy còn lại được hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 (một) bì thư số 359/GĐ - MT ngày 13/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành và 15 (mười lăm) bao ny lông không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

(Toàn bộ số vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/10/2017).

Đối với 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 43G1 - 241.40 của anh Lê Văn T đứng tên chủ sở hữu. Ngày 04/6/2017, anh T cho K mượn xe để đi công việc, anh T không biết việc K sử dụng xe làm phương tiện để mua bán trái phép chất ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê trả lại xe mô tô biển kiểm soát 43G1  - 241.40 cho anh T là có căn cứ nên Hội đồng xét xử không đề cập.

Đối với 53 viên ma túy thuốc lắc Bùi Công K khai sử dụng cùng bạn bè. Do không thu giữ được ma túy, không xác định được địa điểm cũng như những người cùng sử dụng với K nên HĐXX không đề cập đến.

Lâm Thị Kim P có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Đặng Thị T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng pháp luật.

Lâm Thị Kim P không biết K cất giấu 30 viên ma túy thuốc lắc trong người nhằm bán cho người khác, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê không đề cập xử lý nên HĐXX không đề cập đến.

Đối với Dũng là người bán ma túy cho K và đối tượng Cường là người mua ma túy của K đều không rõ lai lịch, địa chỉ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[6] Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Bùi Công K phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Công K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Công K 10 (mười) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/6/2017.

2. Về xử lý vật chứng, tuyên:

- Tịch thu tiêu huỷ ma túy còn lại hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 (một) bì thư số 359/GĐ - MT ngày 13/6/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng và 15 (mười lăm) bao ny lông.

- Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước: Số tiền 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng); 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng - bạc, số imei 013851001411819 và 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, số imei: 352696041933093.

- Tuyên trả cho chị Lâm Thị Kim P số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng). Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện nay Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27 tháng 10 năm 2017.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Bùi Công K phải chịu 200.000đ.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo và chị Lâm Thị Kim P được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ nhận (hoặc niêm yết) trích sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2018/HS-ST ngày 19/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:05/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về