Bản án 05/2018/HS-ST ngày 02/02/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 05/2018/HS-ST NGÀY 02/02/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 02 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, tHnh phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:126/2017/TLST-HS ngày14 tháng12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:07/2017/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T (tức Nguyễn Văn H) sinh năm 1970 tại thành phố Hải Phòng; Nơi cư trú: Thôn 7, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn R và bà Nguyễn Thị C; chưa có vợ con; tiền án: Bản án số 772/HSPT ngày 17 tháng 6 năm 1995, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao xử tù chung thân về tội Giết người và Hủy hoại tài sản của công dân (chưa thi hành tiền án phí, chưa được xóa án tích), tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 26 tháng 7 năm 2017 đến ngày 01 tháng 8 năm 2017 chuyển tạm giam; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 11 giờ 30 phút ngày 26 tháng 7 năm 2017, Nguyễn Văn T bị Tổ công tác Công an huyện Thủy Nguyên kết hợp với Công an xã Hoàng Động bắt quả tang đang có Hành vi bán trái phép chất ma túy cho Cao Văn H, Đinh Văn L, Bùi Văn D tại nơi ở tại thôn 7, xã Hoàng Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng.Thu giữ của T 03 đoạn ống hút nhựa hàn kín 02 đầu dài khoảng 1,5 cm trong chứa chất bột màu trắng (nghi là ma túy) và 300.000 đồng; thu của D, H và L mỗi người 01 đoạn ống nhựa Hn kín 02 đầu dài khoảng 1,5 cm trong chứa chất bột màu trắng (nghi là ma túy). Tổ công tác đã đưa các đối tượng T, H, L, D cùng vật chứng về trụ sở Công an xã Hoàng Động lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Cơ quan Công an tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở và khu vực có liên quan của Nguyễn Văn T thu giữ: 01 bật lửa ga, 02 dao lam và 10 đoạn ống hút nhựa dài khoảng 20cm.

Tại bản Kết luận giám định số 932/PC54, ngày 28/7/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng: chất bột màu trắng Công an thu của T là ma túy có trọng lượng 0,0896 gam (loại Heroine); chất bột màu trắng Công an thu của L là ma túy có trọng lượng 0,0255 gam (loại Heroine); chất bột màu trắng Công an thu của H là ma túy có trọng lượng 0,0140 gam (loại Heroine); chất bột màu trắng Công an thu của D là ma túy có trọng lượng 0,0180 gam (loại Heroine).

Quá trình điều tra mở rộng án, các đối tượng nghiện mua ma túy của Nguyễn Văn T gồm: Cao Văn H, Đinh Văn L, Bùi Văn D và Phạm Văn Q, sinh năm 1976, trú tại: thôn 4, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng khai đã nhiều lần mua ma túy của T. Loại ma túy các đối tượng này mua là Heroine, giá mua ma túy tùy số lượng người mua và do các bên thỏa thuận. Các bên giao dịch mua bán ma túy trực tiếp tại nhà T. Trong khoảng thời gian từ ngày 24/7/2017 đến ngày 26/7/2017, các đối tượng này đã mua ma túy của T nhiều lần, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Khoảng 11 giờ ngày 24/7/2017, H và Quang mua của T 02 gói ma túy Herôine với giá 200.000 đồng.

- Lần thứ hai: Khoảng 10 giờ ngày 25/7/2017, H và L mua của T mỗi người 02 gói Herôine với giá 200.000 đồng.

- Lần thứ ba: Khoảng 11 giờ 20 phút ngày 26/7/2017, T đang ở nhà thì có Cao Văn H; Bùi Văn D và Đinh Văn L đến nhà T hỏi mua 03 gói ma túy với giá 300.00 đồng. T nhận tiền và giao ma túy cho D, L, H mỗi người 01 gói thì bị công an bắt quả tang cùng vật chứng.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận: do bản thân nghiện ma túy nên T đã nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng và bán cho các đối tượng nghiện khác. T không nhận việc bán ma túy cho H, Q, L vào các ngày 24, 25/7/2017. T chỉ thừa nhận bán ma túy cho D, L, H là 03 gói ma túy giá 300.000 đồng vào  ngày26/7/2017. Nguồn gốc số ma túy mà T bán cho H, Q, L là do khoảng 08 giờ ngày 26/7/2017, T mua 01 gói Heroine giá 200.000 đồng của một người đàn ông (không xác định được căn cước, lai lịch), T đem về nhà chia nhỏ thành 06 gói nhỏ, T đóng gói bằng ống hút nhựa rồi hàn kín 02 đầu rồi cất vào túi quần đang mặc. Đến khoảng 11 giờ 20 phút cùng ngày T vừa bán ma túy cho Dũng, Long, H thì bị Công an bắt quả tang thu giữ cùng vật chứng như trên. Về nguồn gốc 01 chiếc bật lửa ga, 02 dao lam và 10 đoạn ống hút nhựa dài khoảng 20cm đều là của T để dùng sử dụng ma túy và bán ma túy.

Cơ quan Công an tiến hành cho H đối chất với T, kết quả hai đều giữ nguyên lời khai. Đối với Đinh Văn L, quá trình điều tra, L vắng có mặt tại địa phương. Riêng Phạm Văn Q từ chối đối chất với T vì do là Hng xóm với T, sợ bị trả thù nên Cơ quan điều tra không tiến Hnh đối chất giữa L, Q với T.

Bà Kiểm sát viên và bị cáo đồng ý với nội dung kết quả của Kết luận giám định số 594, không có ý kiến hay khiếu nại gì.

Bản Cáo trạng số 05/2017/CT-VKS ngày 12 tháng 12 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b, p khoản 2 Điều 194, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 9 năm đến 10 năm tù; không phạt tiền các bị cáo. Về vật chứng của vụ án đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo pháp luật.

Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghỉ nghị án, bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn nhận được sự khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các Hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thủy Nguyên và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về Hnh vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến Hành tố tụng. Do đó, các Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến Hành tố tụng, người tiến Hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Tinh thể màu trắng bị cáo Nguyễn Văn T bán cho Long là 0,0255 gam Heroin, bán cho H là 0,0140 gam Heroin, bán cho D là 0,0180 gam Heroin. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, Hành vi bán trái phép chất ma túy của bị cáo đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Mặc dù tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa xét xử, bị cáo không nhận đã bán ma túy vào ngày 24/7/2017 và ngày 25/7/2017; tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của những người liên quan xác định được bị cáo đã bán ma túy cho H và Q vào ngày 24 tháng 7 năm 2017, bán cho H và L vào ngày 25 tháng 7 năm 2017 và bán cho Cao Văn H, Bùi Văn D, Đinh Văn L vào ngày 26 tháng 7 năm 2017. Ngoài ra bị cáo bị kết án vì tội đặc biệt nghiêm trọng, chưa được xóa án tích, nay lại thực hiện Hnh vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 với tình tiết phạm tội nhiều lần và tái phạm nguy hiểm nên chứng cứ xác định không có tội bị loại trừ.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, vi phạm các chính sách pháp luật về phòng chống ma túy, tác động xấu đến kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, đạo đức, lối sống, văn hóa, hạnh phúc gia đình và sức khỏe của người khác. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

[4] Về hình phạt: Với phân tích trên, cần phải áp dụng hình phạt phạt tù có thời hạn và xử phạt bị cáo với mức án trên mức khởi điểm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp. Tại khoản 5 Điều 194 của BLHS quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, nhưng bị cáo không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành nên không phạt tiền bị cáo.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng: 01 phong bì niêm phong chứa vỏ đựng chất ma túy sau giám định; 01 bật lửa ga, 02 dao lam và 10 đoạn ống hút nhựa dài khoảng 20cm là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy; số tiền 300.000 đồng chuyển Chi cục Thi Hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên. Số tiền 200.000 đồng bị cáo bán ma túy cho H và Q vào ngày 24 tháng 7 năm 2017 và số tiền 200.000 đồng bán cho H và L vào ngày 25 tháng 7 năm 2017 là tiền do thu lợi bất chính mà có, cần truy thu để nộp sung quỹ Nhà nước.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T (tức Nguyễn Văn H) phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 10 năm tù, thời hạn chấp Hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 26 tháng 7 năm 2017.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa vỏ đựng chất ma túy sau giám định, 01 bật lửa ga, 02 dao lam và 10 đoạn ống hút nhựa dài khoảng 20 cm; tịch thu của bị cáo T số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) để nộp sung quỹ Nhà nước; (Chi tiết tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 20 tháng 12 năm 2017 và Biên lai thu tiền số 0000734 ngày 19 tháng 12 năm 2017 của Chi cục Thi Hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên); truy thu của bị cáo T số tiền 400.000 (Bốn trăm nghìn) đồng để nộp sung quỹ nhà nước.

Về lãi suất chậm thi Hành án đối với khoản tiền bị truy thu: Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong, thì Hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi Hành án theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi Hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi Hành án, quyền yêu cầu thi Hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi Hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi Hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi Hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2018/HS-ST ngày 02/02/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về