Bản án 05/2018/HS-PT ngày 12/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 05/2018/HS-PT NGÀY 12/01/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 173/2017/TLPT-HS ngày 14 tháng 10 năm 2017 do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 22/2017/HS- ST ngày 05 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang.

- Bị cáo có kháng cáo: Lâm Ngọc T, sinh năm 1976;

Nơi đăng ký HKTT và cư trú hiện tại: 155, đường T, khu phố II, phường P, thị xã H, tỉnh K; nghề nghiệp: Kinh doanh nhà trọ; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lâm Văn M và bà Trần Sái L; tiền án, tiền sự: Không; vợ tên: Mai Thị H; con: 02 – người lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2005; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 08-12-2016 cho đến nay

Bị cáo có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 08-12-2016, tại phòng B3 nhà trọ N thuộc khu phố II, phường P, thị xã H, tỉnh K, Lâm Ngọc T bán ma túy cho Nguyễn Minh C với giá 1.000.000 đồng để C và Bùi Thị H (bạn gái C) cùng sử dụng thì bị lực lượng Công an thị xã Hà Tiên bắt quả tang, thu giữ tang vật gồm hai túi (bịch) nylon bên trong có chứa chất tinh thể rắn màu trắng, tiền Việt Nam 2.705.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Oppo, 01 ví nam màu nâu - vàng, 01 dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá làm từ chai nước ngọt Sting, 01 điện thoại di động hiệu Wing màu đỏ - đen, 01 điện thoại di động hiệu Mobiitar Laizoro 2 màu vàng - đen. Khám xét khẩn cấp tại chỗ ở của T thu giữ thêm hai túi (bịch) nylon trong suốt được cắt hở một đầu, bên trong còn bám dính những hạt tinh thể rắn màu trắng.

Qua điều tra Lâm Ngọc T khai nhận nhiều lần bán ma túy cho các con nghiện tại khu vực thị xã H và huyện K. Việc mua bán chủ yếu liên lạc qua số điện thoại 01238383138 của T và T chỉ cách thức giao dịch như sau:

1. Nguyễn Minh C, trú tại số 67 M, khu phố I, phường B, thị xã H dùng số điện thoại 0941630046 liên lạc với Lâm Ngọc T và T đã bán ma túy cho C 03 lần, cụ thể: Lần 01- khoảng 18h00 đầu tháng 12-2016 T bán 500.000 đồng ma túy cho C, hưởng lợi 250.000 đồng; lần 02: Sau lần 01 năm ngày T bán 800.000 đồng ma túy cho C, hưởng lợi 350.000 đồng và lần 03: Khoảng 20h00 ngày 08-12-2016 Tuấn bán 300.000 đồng ma túy cho C; tổng thu lợi bất chính 600.000 đồng.

2. Bùi Thị H, trú tại khu phố II, phường P, thị xã H dùng số điện thoại 01236727074 liên lạc với Lâm Ngọc T và T đã bán ma túy cho H 01 lần vào khoảng 19h00 ngày 08-12-2016 với số tiền 300.000 đồng.

3. Trần Trí P, trú tại tổ 2, khu phố III, phường P, thị xã H dùng số điện thoại 01627860833 liên lạc với Lâm Ngọc T và T đã bán ma túy cho P 04 lần, cụ thể: Lần 01- khoảng tháng 9-2016 T bán 200.000 đồng ma túy cho P, hưởng lợi 100.000 đồng; lần 02: Sau lần 01 bảy ngày khoảng tháng 9-2016, T bán 200.000 đồng ma túy cho P, hưởng lợi 100.000 đồng; lần 03: Sau lần 02 bảy ngày khoảng tháng 9-2016 T bán 200.000 đồng ma túy cho P, hưởng lợi 100.000 đồng và lần 04: Sau lần 03 bảy ngày khoảng tháng 9-2016, T bán 300.000 đồng ma túy cho P, hưởng lợi 150.000 đồng; tổng thu lợi bất chính 450.000 đồng.

4. Nguyễn Văn C1 (C vựa ghẹ), trú tại khu phố B, thị trấn K, huyện K dùng số điện thoại 0944114475 liên lạc với Lâm Ngọc T và T đã bán ma túy cho C1 05 lần; cụ thể: Lần 01- khoảng cuối tháng 8-2016 T bán 500.000 đồng ma túy cho C1; lần 02: Sau lần 01 mười ngày khoảng đầu tháng 9-2016 T bán 500.000 đồng ma túy cho C1; lần 03: Sau lần 02 mười ngày khoảng giữa tháng 9-2016 T bán 500.000 đồng ma túy cho C1; lần 04: sau lần 03 mười ngày khoảng cuối tháng 9-2016 T bán 500.000 đồng ma túy cho C1 và lần 05: Sau lần 04 mười ngày khoảng đầu tháng 10-2016 T bán 500.000 đồng ma túy cho C1; tổng thu lợi bất chính 1.000.000 đồng.

5. Lương Quốc N (N1 heo), trú tại tổ 6, khu phố X, thị trấn K, huyện K dùng số điện thoại 01659694949 liên lạc với Lâm Ngọc T và T đã bán ma túy cho N1 03 lần, cụ thể: Lần 01- khoảng đầu tháng 9-2016 T bán 200.000 đồng ma túy cho N1, hưởng lợi 100.000 đồng; lần 02: Sau lần 01 ba ngày khoảng tháng 9-2016 T bán 200.000 đồng ma túy cho N1, hưởng lợi 100.000 đồng; lần 03: Sau lần 02 hai ngày khoảng tháng 9-2016, T bán 200.000 đồng ma túy cho N1, hưởng lợi 100.000 đồng; tổng thu lợi bất chính 300.000 đồng.

6. Phạm Hữu N2 (N2 Ngọng), trú tại khu phố H, thị trấn K, huyện K được Lâm Ngọc T bán ma túy 03 lần vào khoảng tháng 9-2016; tổng thu lợi bất chính 300.000 đồng.

7. Lý Văn L, trú tại tổ 8, khu phố K, thị trấn K, huyện K được Lâm Ngọc T bán ma túy02 lần; cụ thể: Lần 01: Khoảng đầu tháng 10-2016 T bán 200.000 đồng ma túy cho L, hưởng lợi 100.000 đồng; lần 02: Sau lần 01 năm ngày khoảng tháng 10-2016 T bán 200.000 đồng ma túy cho L, hưởng lợi 100.000 đồng; tổng thu lợi bất chính 200.000 đồng.

8.Trần Út N3 (H chở đào), trú tại khu phố B, thị trấn K, huyện K dùng số điện thoại 01296661516 liên lạc với Lâm Ngọc T và T đã bán ma túy 03 lần vào khoảng tháng 10-2016; tổng thu lợi bất chính 300.000 đồng.

T còn khai nhận bán ma túy nhiều lần từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng cho các con nghiện, gồm: D 03 lần hưởng lợi 400.000 đồng; N4 01 lần hưởng lợi 100.000 đồng; S 02 lần hưởng lợi 200.000 đồng và T2 02 lần hưởng lợi 300.000 đồng; tổng thu lợi bất chính 1.000.000 đồng.

Ngoài lần bắt quả tang ngày 08-12-2016, Lâm Ngọc T đã thực hiện giao dịch mua bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Minh C, Bùi Thị H, Trần Trí P, Nguyễn Văn C1, Lương Quốc N, Phạm Hữu N, Lý Văn L, Trần Út N 24 lần.Bán cho các đối tượng D, N, S, T 08 lần. Tổng thu lợi bất chính số tiền 4.150.000 đồng.

*Vật chứng vụ án thu giữ:

1.Mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì ký hiệu số: 693/gói 1, đề ngày 14-12-2016 có chữ ký của giám định viên Lê Đức H, người chứng kiến Võ Quốc K và đóng dấu mộc giáp lai của phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Kiên Giang;

2.Mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì ký hiệu số: 693/gói 2, đề ngày 14-12-2016 có chữ ký của giám định viên Lê Đức H, người chứng kiến Võ Quốc K và đóng dấu mộc giáp lai của phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Kiên Giang;

3.Mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì ký hiệu số: 693/gói 3, đề ngày 14-12-2016 có chữ ký của giám định viên Lê Đức H, người chứng kiến Võ Quốc K và đóng dấu mộc giáp lai của phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Kiên Giang;

4.Mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì ký hiệu số: 693/gói 4, đề ngày 14-12-2016 có chữ ký của giám định viên Lê Đức H, người chứng kiến Võ Quốc K và đóng dấu mộc giáp lai của phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Kiên Giang;

5. 01 điện thoại di động cảm ứng nhãn hiệu OPPO, loại A33W, màu trắng, số Imei 1: 860739033897952, số Imei 2: 860739033897945 (đã qua sử dụng) bên trong gắn 2 sim mang số 0964544050 và 01238383138, được niêm phong trong phong bì kích thước (22 x 16cm), có chữ ký của điều tra viên Vũ Khánh N, người chứng kiến Lâm Ngọc T, Nguyễn Huỳnh A và được đóng dấu giáp lai của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an Tx. Hà Tiên;

6. 01 bóp (ví) bằng da, loại của nam, màu nâu- vàng có chữ “Boss” bên trên (đã qua sử dụng);

7. 01 dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá làm từ chai nhựa và có chữ Sting bên trên thân chai;

8. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Wing màu đỏ - đen, loại 2 sim, số Imei 1: 354029050200584, số Imei 2: 354029050200592 (đã qua sử dụng) bên trong gắn sim mang số 0941630046 được niêm phong trong phong bì kích thước (22 x 16)cm, có chữ ký của điều tra viên Vũ Khánh N, kiểm sát viên Lâm Thanh T, người chứng kiến Nguyễn Minh C, Lâm Ngọc T và được đóng dấu giáp lai của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an Tx. Hà Tiên;

9. 01 điện thoại di động cảm ứng nhãn hiệu Mobiistar, loại Laizoro 2, màu vàng- đen, loại 2 sim, số Imei: 357250422219998 (đã qua sử dụng) bên trong gắn sim mang số 01236727074 được niêm phong trong phong bì kích thước (22 x 16)cm, có chữ ký của điều tra viên Vũ Khánh N, kiểm sát viên Lâm Thanh T, người chứng kiến Bùi Thị H, Lâm Ngọc T và được đóng dấu giáp lai của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an Tx. Hà Tiên;

10. Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 2.705.000 đồng.

Các vật chứng từ mục 1 đến 9 hiện đang được bảo quản, quản lý tại kho vật chứng - Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hà Tiên.

Vật chứng 10 hiện đang được bảo quản tại Kho bạc Nhà nước thị xã Hà Tiên.

*Tại bản giám định số: 693/KL- KTHS, ngày 14 tháng 12 năm 2016 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang, kết luận:

- Gói 01: Các hạt tinh thể rắn, màu trắng chứa trong 01 bịch nylon màu trắng được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Trọng lượng mẫu gửi giám định là 0,4718gam.

- Gói 02: Các hạt tinh thể rắn, màu trắng chứa trong 01 bịch nylon màu trắng được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Trọng lượng mẫu gửi giám định là 0,1182gam.

- Gói 03: Các hạt tinh thể rắn, màu trắng chứa trong 01 bịch nylon màu trắng được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Trọng lượng mẫu gửi giám định là 0,0375gam.

- Gói 04: Các hạt tinh thể rắn, màu trắng chứa trong 01 bịch nylon màu trắng được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Trọng lượng mẫu gửi giám định là 0,0208gam.

*Ti bản án hình sự sơ thẩm số: 22/2017/HS- ST ngày 05-9-2017 của Tòa án nhân dân thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Lâm Ngọc T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 194 và Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009);

Xử phạt: Bị cáo Lâm Ngọc T 09 năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08- 12-2016.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về các biện pháp tư pháp, án phí và báo quyền kháng cáo theo hạn luật định.

Ngày 12-9-2017, bị cáo Lâm Ngọc T kháng cáo với nội dung yêu cầu Tòa cấp phúc xem xét khung, khoản hình phạt và mức án do Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên.

Điện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm giảm án cho bị cáo từ 09 năm tù giam xuống còn từ 7-8 năm tù giam, vì tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự thú những lần phạm tội trước khi bắt quả tang, nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã nêu và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 08-12-2016 tại phòng B nhà trọ N thuộc khu phố II, phường P, thị xã H, tỉnh K. Lâm Ngọc T bán ma túy cho Nguyễn Minh C với giá 1.000.000 đồng để C và Bùi Thị H (bạn gái C) cùng sử dụng thì bị lực lượng Công an thị xã Hà Tiên bắt quả tang, thu giữ tang vật gồm hai túi (bịch) nylon bên trong có chứa chất tinh thể rắn màu trắng, tiền Việt Nam 2.705.000 đồng và các tang vật phạm tội khác. Qua điều tra Lâm Ngọc T khai nhận nhiều lần bán ma túy cho các con nghiện tại khu vực thị xã H và huyện K. Việc mua bán chủ yếu liên lạc qua số điện thoại 01238383138 của T và T chỉ cách giao dịch như sau:

1. Nguyễn Minh C, trú tại số 67 M, khu phố I, phường B, thị xã H dùng số điện thoại 0941630046 liên lạc với Lâm Ngọc T và T đã bán ma túy cho C 03 lần, cụ thể: Lần 01- khoảng 18h00 đầu tháng 12-2016 T bán 500.000 đồng ma túy cho C, hưởng lợi 250.000 đồng; lần 02: Sau lần 01 năm ngày T bán 800.000 đồng ma túy cho C, hưởng lợi 350.000 đồng và lần 03: Khoảng 20h00 ngày 08-12-2016 T bán 300.000 đồng ma túy cho C; tổng thu lợi bất chính 600.000 đồng.

2. Bùi Thị H, trú tại khu phố II, phường P, thị  xã H dùng số điện thoại 01236727074 liên lạc với Lâm Ngọc T và T đã bán ma túy cho H 01 lần vào khoảng 19h00 ngày 08-12-2016 với số tiền 300.000 đồng.

3. Trần Trí P, trú tại tổ 2, khu phố III, phường P, thị xã H dùng số điện thoại 01627860833 liên lạc với Lâm Ngọc T và T đã bán ma túy cho P 04 lần, cụ thể: Lần 01- khoảng tháng 9-2016 T bán 200.000 đồng ma túy cho P, hưởng lợi 100.000 đồng; lần 02: Sau lần 01 bảy ngày khoảng tháng 9-2016, T bán 200.000 đồng ma túy cho P, hưởng lợi 100.000 đồng; lần 03: Sau lần 02 bảy ngày khoảng tháng 9-2016 T bán 200.000 đồng ma túy cho P, hưởng lợi 100.000 đồng và lần 04: Sau lần 03 bảy ngày khoảng tháng 9-2016, T bán 300.000 đồng ma túy cho P, hưởng lợi 150.000 đồng; tổng thu lợi bất chính 450.000 đồng.

4. Nguyễn Văn C1 (C1 vựa ghẹ), trú tại khu phố B, thị trấn K, huyện K dùng số điện thoại 0944114475 liên lạc với Lâm Ngọc T và T đã bán ma túy cho C1 05 lần, cụ thể: Lần 01- khoảng cuối tháng 8-2016 T bán 500.000 đồng ma túy cho C1; lần 02: Sau lần 01 mười ngày khoảng đầu tháng 9-2016 T bán 500.000 đồng ma túy cho C; lần 03: Sau lần 02 mười ngày khoảng giữa tháng 9-2016 T bán 500.000 đồng ma túy cho C; lần 04: sau lần 03 mười ngày khoảng cuối tháng 9-2016 T bán 500.000 đồng ma túy cho C1 và lần 05: Sau lần 04 mười ngày khoảng đầu tháng 10-2016 T bán 500.000 đồng ma túy cho C1; tổng thu lợi bất chính 1.000.000 đồng.

5. Lương Quốc N1 (N1 heo), trú tại tổ 6, khu phố X, thị trấn K, huyện K dùng số điện thoại 01659694949 liên lạc với Lâm Ngọc T và T đã bán ma túy cho N1 03 lần, cụ thể: Lần 01- khoảng đầu tháng 9-2016 T bán 200.000 đồng ma túy cho N1, hưởng lợi 100.000 đồng; lần 02: Sau lần 01 ba ngày khoảng tháng 9-2016 T bán 200.000 đồng ma túy cho N, hưởng lợi 100.000 đồng; lần 03: Sau lần 02 hai ngày khoảng tháng 9-2016, T bán 200.000 đồng ma túy cho N, hưởng lợi 100.000 đồng; tổng thu lợi bất chính 300.000 đồng.

6. Phạm Hữu N2 (N2 Ngọng), trú tại khu phố H, thị trấn K, huyện K được Lâm Ngọc T bán ma túy 03 lần vào khoảng tháng 9-2016; tổng thu lợi bất chính 300.000 đồng.

7. Lý Văn L, trú tại tổ 8, khu phố K, thị trấn K, huyện K được Lâm Ngọc T bán ma túy 02 lần, cụ thể: Lần 01: Khoảng đầu tháng 10-2016 T bán 200.000 đồng ma túy cho L, hưởng lợi 100.000 đồng; lần 02: Sau lần 01 năm ngày khoảng tháng 10-2016 T bán 200.000 đồng ma túy cho L, hưởng lợi 100.000 đồng; tổng thu lợi bất chính 200.000 đồng.

8.Trần Út N3 (H chở đào), trú tại khu phố B, thị trấn K, huyện K dùng số điện thoại 01296661516 liên lạc với Lâm Ngọc T và T đã bán ma túy 03 lần vào khoảng tháng 10/2016; tổng thu lợi bất chính 300.000 đồng.

T còn khai nhận bán ma túy nhiều lần từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng cho các con nghiện, gồm: D 03 lần hưởng lợi 400.000 đồng; N4 01 lần hưởng lợi 100.000 đồng; S 02 lần hưởng lợi 200.000 đồng và T 02 lần hưởng lợi 300.000 đồng; tổng thu lợi bất chính 1.000.000 đồng.

Ngoài lần bắt quả tang ngày 08-12-2016, Lâm Ngọc T đã thực hiện giao dịch mua bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Minh C, Bùi Thị H, Trần Trí P, Nguyễn Văn C, Lương Quốc N, Phạm Hữu N, Lý Văn L, Trần Út N 24 lần. Bán cho các đối tượng D, N, S, T 08 lần. Tổng thu lợi bất chính số tiền 4.150.000 đồng.

[2] Về tính chất của hành vi vi phạm:

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là rất nghiêm trọng cho xã hội, ma túy là chất độc gây nghiện ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của con người, làm suy giảm về sức khỏe, đạo đức lối sống, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương, tạo gánh nặng cho gia đình và xã hội và còn là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác như trộm cắp tài sản, cướp giật tài sản, thậm chí giết người,… nên nhà nước độc quyền quản lý loại độc chất này. Nhưng bị cáo bất chấp pháp luật, sức khỏe của người khác thực hiện hành vi mua bán ma túy nhiều lần, cho nhiều người, thu lợi bất chính tổng cộng số tiền 5.750.000 đồng. Nên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3] Xét đơn kháng cáo của cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm bị cáo quanh co chối tội, không thừa nhận thực hiện hành vi phạm tội của mình trước khi bắt quả tang nên cấp sơ thẩm không xem xét các tình tiết giảm trách nhiệm hình sự và xử bị cáo mức án 09 năm tù là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thay đổi kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo tự thú những lần phạm tội trước đó, nên Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) để giảm án cho bị cáo.

Nên trong thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, chấp nhận quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, sửa bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Lâm Ngọc T. Sửa bản án sơ thẩm.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 194; điểm o, p khoản 1 Điều 46 và Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Xử phạt: Bị cáo Lâm Ngọc T 07 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08-12-2016.

[2] Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Bị cáo Lâm Ngọc T không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

373
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2018/HS-PT ngày 12/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về