TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 05/2018/HNGĐ - ST NGÀY 30/01/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 30 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nga Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 224/2018/TLST- HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2018 /QĐXX- ST, ngày 20 tháng 12 năm 2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Đặng Thị H - Sinh năm: 1996
Địa chỉ: Xóm 1, xã Nga T, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
2. Bị đơn: Anh Phạm Văn S - Sinh năm: 1992
Địa chỉ: Thôn Ngoại 2, xã Nga G, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Phiên tòa có mặt chị H, vắng mặt anh S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 26/10/2018 và bản tự khai, nguyên đơn chị Đặng Thị H trình bày: Chị và anh S kết hôn với nhau vào ngày 19/01/2016, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được UBND xã Nga T cấp đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh S nghiện ma túy không có trách nhiệm với gia đình nên cuộc sống vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, thường bất đồng về quan điểm. Từ tháng 11/2017, chị đã cùng con trở về sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ. Trong thời gian sống ly thân, anh S và chị không quan tâm gì đến nhau. Xét thấy cuộc sống chung vợ chồng không thể tiếp tục duy trì, chị H đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn anh S theo quy định.
Về con: Vợ chồng có 01 con chung là Phạm Đăng Q, sinh ngày 05/11/2016. Sau ly hôn, chị đề nghị được nuôi cháu Q, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.
Về tài sản: Vợ chồng chưa tạo lập được tài sản gì chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn anh Phạm Văn S, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật. Nhưng anh S cố tình vắng mặt nên không có lời khai trong hồ sơ vụ án.
Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, anh S vắng mặt nên việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ chỉ tiến hành đối với nguyên đơn, đồng thời Tòa án không tiến hành hòa giải được. Vì vậy,Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử. Tòa án đã tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho các đương sự theo quy định.
Mặc dù anh S đã được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử (HĐXX) quyết định hoãn phiên tòa.
Tại phiên tòa hôm nay, chị H vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn anh S theo quy định của pháp luật; về con chị đề nghị được nuôi cháu Q, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chị không yêu cầu giải quyết. Đối với bị đơn anh S được Tòa án triệu tập hợp lệ lần hai, vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt anh S.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn phát biểu ý kiến:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật; bị đơn chưa chấp hành đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định.
- Về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và ý kiến trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
* Về thủ tục tố tụng: Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
* Về nội dung:
[1] Về hôn nhân: Chị Đặng Thị H và anh Phạm Văn S kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Theo chị H trình bày sau khi kết hôn vợ chồng chung sống không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do anh S nghiện ma túy, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Đến tháng 11/2017, chị đã trở về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Vợ chồng cũng chính thức sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau nữa.
Đối với anh S mặc dù biết chị H yêu cầu ly hôn nhưng anh cố tình vắng mặt, không thể hiện quan điểm. Chứng tỏ anh S không có thiện chí để níu kéo tình cảm vợ chồng trở về đoàn tụ. Xét cuộc sống chung của chị H và anh S đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không thể duy trì được nên HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị H, cho chị H ly hôn anh S là phù hợp quy định của pháp luật.
[2] Về con: Vợ chồng có 01 con chung là Phạm Đăng Q, sinh ngày 05/11/2016. Sau ly hôn, chị đề nghị được nuôi cháu Q, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.
Xét đề nghị xin được nuôi con và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung của chị H là chính đáng. Do cháu Q còn nhỏ, để đảm bảo quyền lợi cũng như sự chăm sóc cháu, nên giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng cháu là phù hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về tài sản: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.
[4] Về án phí: Chị Đặng Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (DSST) theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: khoản 1 Điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Về hôn nhân: Chấp nhận đơn của chị Đặng Thị H, cho chị H được ly hôn anh Phạm Văn S.
2. Về con: Giao cháu Phạm Đăng Q, sinh ngày 05/11/2016 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh Phạm Văn S không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị H không yêu cầu. Anh S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Đặng Thị H phải chịu án phí DSST là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí DSST đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2016/0004929 ngày 30/10/2018 của Chi cục THADS huyện Nga Sơn, chị H đã nộp đủ án phí DSST.
Bản án này là sơ thẩm. Chị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 05/2018/HNGĐ-ST ngày 30/01/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 05/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về