TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 05/2018/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2018 VỀ XIN LY HÔN
Ngày 25/9/2018, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Kông Chro mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 15/2018/TLST-HNGĐ, ngày 03/5/2018, về việc: “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2018/QĐST-HNGĐ, ngày 05/9/2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh naêm 1971.
Nơi cư trú Thôn, xã K, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai – có mặt.
- Bị đơn: Ông Huỳnh Văn T, sinh năm 1974.
Nơi cư trú: Thôn, xã K, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai – có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 03/5/2018, bản tự khai và tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị L trình bày:
Về quan heä hoân nhaân: Giữa bà và ông Huỳnh Văn T chung sống với nhau từ năm 1990, có tổ chức đám cưới theo phong tục nhưng không đăng ký kết hôn. Trước khi đi đến kết hôn hai bên có sự tự do tìm hiểu, tự nguyện đi đến với nhau. Tuy nhiên, thời gian gần đây vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau, bất đồng quan điểm sống. Gần hai năm đến nay ông T thường xuyên nhậu nhẹt, chơi bời, đánh đập rồi lấy hết tiền nhà bỏ nhà bỏ đi. Do đó bà L thấy tình cảm vợ chồng không còn nên viết đơn kính mong Tòa án nhân dân huyện Kông Chro quan tâm giải quyết cho bà được ly hôn với ông Huỳnh Văn T.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên là Huỳnh Văn H, sinh ngày 06/11/1991 và Huỳnh Thị N, sinh ngày 04/8/1995. Các con hiện đã lớn và tự lập được nên khi ly hôn bà không có yêu cầu giải quyết về con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Vôï choàng tự thỏa thuận, khoâng yeâu caàu Toaø aùn giaûi quyeát.
Trong quá trình tham gia tố tụng, bị đơn là ông Huỳnh Văn T trình bày:
Ông T và bà Nguyễn Thị L sống chung với nhau từ năm 1990, có tổ chức đám cưới theo phong tục nhưng không đăng ký kết hôn. Trước khi đi đến kết hôn hai bên có sự tự do tìm hiểu, tự nguyện đi đến với nhau. Tuy nhiên, thời gian gần đây vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Nguyên nhân là chỉ có lần ông nhậu với bạn thì vợ chồng cãi nhau rồi bà L bỏ về nhà thứ hai (vợ chồng có 02 nhà) thì ông có đến nói chuyện để vợ chồng về đoàn tụ nhưng bà L không chịu nghe và lớn tiếng với ông, làm ông nóng giận có đánh bà L 01 lần duy nhất. Bà L cho rằng ông hay nhậu nhẹt,
chơi bời, đánh đập rồi lấy tiền nhà đi ông không đồng ý vì ông không có làm chuyện
đó. Nay ông T thấy cuộc sống chung của vợ chồng không có hạnh phúc và không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, bà L yêu cầu ly hôn thì ông cũng đồng ý.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên là Huỳnh Văn H, sinh ngày 06/11/1991 và Huỳnh Thị N, sinh ngày 04/8/1995. Các con hiện đã lớn và tự lập được nên khi ly hôn ông cũng không có yêu cầu giải quyết về con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Vôï choàng tự thỏa thuận, không yêu cầu tòa án giải quyết
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
Ông Huỳnh Văn T và bà Nguyễn Thị L chung sống với nhau từ năm 1990. Trước khi chung sống, ông bà có thời gian tìm hiểu, yêu thương nhau và được sự đồng ý của hai bên gia đình nhưng ông bà không đi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật mà chỉ tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương. Tuy việc chung sống của ông Huỳnh Văn T và bà Nguyễn Thị L là tự nguyện nhưng việc ông bà không đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là đã vi phạm vào các quy định về kết hôn của Luật Hôn nhân và gia đình.
Tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.
Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”.
Do vậy, việc ông T và bà L tự nguyện chung sống với nhau nhưng không đăng ký kết hôn nên không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Ông Huỳnh Văn T và bà Nguyễn Thị L là những công dân đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực hành vi và nhận thức. Lẽ ra ông bà phải nghiêm túc chấp hành những quy định của pháp luật về đăng ký kết hôn nhưng ông bà không thực hiện, bất chấp những quy định của pháp luật, điều này ông bà cần rút kinh nghiệm.
Xét tình trạng hôn nhân giữa ông Huỳnh Văn T và bà Nguyễn Thị L đã đến mức trầm trọng, mâu thuẫn giữa ông bà xảy ra đã lâu và không thể hàn gắn được, ông bà đều thể hiện ý chí xin được ly hôn. Như vậy, mục đích của hôn nhân của ông bà
không đạt được, đáng lẽ ra Hội đồng xét xử sẽ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L và công nhận sự thuận tình ly hôn của ông bà nhưng như đã phân tích ở trên do ông bà không đăng ký kết hôn nên không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ tuyên bố không công nhận ông Huỳnh Văn T và bà Nguyễn Thị L là vợ chồng.
Về con chung, tài sản chung và nghĩa vụ chung: Ông Huỳnh Văn T và bà Nguyễn Thị L không yêu cầu, các con chung của ông bà là Huỳnh Văn H, sinh năm 1991 và Huỳnh Thị N, sinh năm 1995 đều đã trưởng thành không có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kông Chro đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 14 và 53 của Luật Hôn nhân và gia đình xử:
- Tuyên bố không công nhận ông Huỳnh Văn T và bà Nguyễn Thị L là vợ chồng.
Về con chung, tài sản chung và nghĩa vụ chung: Ông Huỳnh Văn T và bà Nguyễn Thị L thống nhất tự thoả thuận với nhau, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này có tranh chấp thì sẽ giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.
Về án phí: Bà Nguyễn Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, các Điều 147, 227, 235 và 264 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ vào các Điều 14 và 53 của Luật Hôn nhân và gia đình;
- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
*Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân:
Tuyên bố không công nhận bà Nguyễn Thị L và ông Huỳnh Văn T là vợ chồng.
2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà L đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000066, ngày 03/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai, bà L đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.
Bản án 05/2018/HNGĐ-ST ngày 25/09/2018 về xin ly hôn
Số hiệu: | 05/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kông Chro - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/09/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về