Bản án 05/2018/HNGĐ-ST ngày 06/02/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ L, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 05/2018/HNGĐ-ST NGÀY 06/02/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 06/02/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 233/2017/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2017, về: “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 02/01/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số:01/2018/QĐST- HNGĐ, ngày 19/01/2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Doãn Mạnh H - Sinh năm: 1978 - Địa chỉ: Khu 6, xN, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ. (Có mặt)

2. Bị đơn: Chị Đặng Thị Hồng D - Sinh năm: 1983 - Địa chỉ: Khu phố 2, phường B, thị xã L, tỉnh Bình Thuận. (Vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn, nuôi con ngày 02/10/2017 và lời khai tại Tòa án nhân dân thị xã L, anh Doãn Mạnh H - Nguyên đơn trình bày:

Anh và chị Đặng Thị Hồng D tự nguyện chung sống với nhau có đăng ký kết hôn vào năm 2004 tại UBND xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận theo giấy chứng nhận kết hôn số 16, Quyển số 01, cấp ngày 17/02/2004 (Nay là phường B, thị xã L, tỉnh Bình Thuận). Quá trình chung sống, giữa anh và chị D sống hạnh phúc một thời gian thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp nên hay cãi nhau, chị D đam mê cờ bạc làm ảnh hưởng tới kinh tế gia đình. Ngoài ra, chị D còn có tình cảm với người khác, không có trách nhiệm với gia đình, chồng con. Anh H đã cho chị D nhiều cơ hội để sửa đổi nhưng không có kết quả. Hiện nay giữa anh và chị D đã không còn sống chung, không còn quan tâm lẫn nhau từ năm 2016, tình cảm của anh đối với chị D không còn, nên anh yêu cầuTòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đặng Thị Hồng D.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Doãn Đặng Thái P, sinh ngày: 02/7/2004 và cháu Doãn Đặng Mạnh D, sinh ngày: 17/6/2008. Khi ly hôn, anh H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, anh H không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh H không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay, anh H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình.

Bị đơn: Chị Đặng Thị Hồng D:

Quá trình giải quyết Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết giấy triệu tập và các giấy tờ khác hợp lệ theo quy định của pháp luật, nhưng chị D không chấp hành. Qua xác minh thực tế tại người thân chị D thì mâu thuẫn giữa anh H và chị D có xảy ra, chị D đam mê cờ bạc, có tình cảm với người khác và thiếu có trách nhiệm tới gia đình, chồng con nên việc hàn gắn giữa anh H và chị D là rất khó.

Tại phiên tòa hôm nay, chị D vẫn vắng mặt không lý do.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã L cho rằng:

- Việc tuân theo pháp luật từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử sơ thẩm: Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự; Thẩm quyền thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật, tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng là phù hợp quy định pháp luật; Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử thực hiện đúng phiên tòa sơ thẩm; Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Đương sự đã thực hiện theo quy định.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về hôn nhân: Anh Doãn Mạnh H được ly hôn chị Đặng Thị Hồng D. Về con chung: Giao cho anh H được trực tiếp nuôi 02 con chung: Doãn Đặng Thái P, sinh ngày: 02/7/2004 và Doãn Đặng Mạnh D, sinh ngày: 17/6/2008. Về án phí: Anh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; Sau khi nghe quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa, có mặt nguyên đơn anh Doãn Mạnh H. Bị đơn chị Đặng Thị Hồng D đã được tống đạt hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Căn cứ vào Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Anh Doãn Mạnh H nộp đơn khởi kiện về việc “Ly hôn, nuôi con”. Bị đơn chị Đặng Thị Hồng D có nơi cư trú tại Kh phố 2, phường B, thị xã L, tỉnh Bình Thuận. Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, yêu cầu khởi kiện của anh Doãn Mạnh H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

Tại phiên tòa, anh Doãn Mạnh H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đặng Thị Hồng D. Về con chung: Anh H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là cháu Doãn Đặng Thái P, sinh ngày: 02/7/2004 và cháu Doãn Đặng Mạnh D, sinh ngày: 17/6/2008, anh H không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Trong quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa hôm nay, chị Đặng Thị Hồng D không có mặt để giải quyết vụ án này mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần. Việc vắng mặt này của chị D được coi là từ bỏ quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của mình.

[3] Về hôn nhân: Xét yêu cầu khởi kiện của anh Doãn Mạnh H Hội đồng xét xử xét thấy: Giữa anh Doãn Mạnh H và chị Diệp Thị Hồng D tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2004, có đăng ký kết hôn vào tại UBND xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận (Nay là phường B, thị xã L, tỉnh Bình Thuận). Trong thời gian chung sống, theo anh H thì vợ chồng sống hạnh phúc nhưng đến năm 2016 vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp nên hay cãi nhau, chị D đam mê cờ bạc làm ảnh hưởng tới kinh tế gia đình. Ngoài ra, chị D còn có tình cảm với người khác, không có trách nhiệm với gia đình, chồng con. Tại phiên tòa, anh H cũng cho rằng anh đã cho chị D nhiều cơ hội để sửa đổi nhưng không có kết quả. Hiện tình cảm của anh đối với chị D không còn và giữa anh với chị D đã không còn sống chung với nhau.

Lời trình bày của anh H phù hợp với xác minh của Tòa án tại Trưởng khu phố 2, phường B với nội dung: "... Vợ chồng anh H và chị D có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị D đam mê cờ bạc, không có trách nhiệm tới gia đình, có tình cảm với người khác. Hiện nay chị D đã đi khỏi địa phương, lâu lâu về thăm gia đình, khi đi khỏi địa phương không báo, hiện tại sống ở đâu thì địa phương không rõ. Giữa anh H và chị D có 02 con chung đang ở với ông bà ngoại, mâu thuẫn giữa anh H và D rất khó để hàn gắn, Tòa án giải quyết theo quy định ...". Điều này cũng phù hợp với thực tế xác minh tại người thân của chị Đặng Thị Hồng D là bà Võ Thị N (mẹ ruột của chị D) thì mâu thuẫn giữa anh H và chị D có thật, nguyên nhân mâu thuẫn như anh H trình bày: là do chị D đam mê cờ bạc, có tình cảm với người khác và ít có trách nhiệm với gia đình. Việc hàn gắn giữa anh H và chị D là rất khó, hiện tại anh chị không còn chung sống từ năm 2016 đến nay.

Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết các thủ tục theo quy định của pháp luật, tại phiên tòa chị D vắng mặt không có lý do. Điều đó chứng tỏ giữa anh H, chị D không có thiện chí hàn gắn, không tìm được giải pháp cụ thể nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Từ những căn cứ trên, nhận thấy mâu thuẫn giữa anh H và chị D đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, anh H được ly hôn chị D.

[4] Về con chung: Xét yêu cầu nuôi con của anh H, Hội đồng xét xử xét thấy: Việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng cần phải xem xét đến việc đảm bảo quyền lợi cho con về mọi mặt. Xét về điều kiện công việc thì anh H có việc làm, có thu nhập đảm bảo việc nuôi dưỡng và chăm sóc con. Hơn nữa, qua xác minh ý kiến người thân chị D thì chị D thiếu trách nhiệm với gia đình, không đảm bảo cho việc nuôi con. Vì vậy, Hội đồng xét xử giao cho anh Doãn Mạnh H được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là cháu Doãn Đặng Thái P, sinh ngày: 02/7/2004 và cháu Doãn Đặng Mạnh D, sinh ngày: 17/6/2008. Chị Đặng Thị Hồng D có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung mà không ai được cản trở, chị D được quyền khởi kiện thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn nếu có căn cứ theo quy định pháp luật.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Anh H không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Anh H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng

- Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Điều 228; Điều 273 và 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm2015

- Các Điều 51, 56, 58, 69, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Anh Doãn Mạnh H được ly hôn với chị Đặng Thị Hồng D.- Về con chung: Giao cho anh Doãn  Mạnh H được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là cháu Doãn Đặng Thái P, sinh ngày: 02/7/2004 và cháu Doãn Đặng Mạnh D, sinh ngày: 17/6/2008.

Chị Đặng Thị Hồng D có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Để đảm bảo quyền lợi của con chung, chị D được quyền khởi kiện thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn nếu có căn cứ theo quy định pháp luật.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.- Về án phí: Anh Doãn Mạnh H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Nhưng anh H được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng, theo biên lai số 0017425 ngày 12/10/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã L. Anh H đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp Bản án thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2018/HNGĐ-ST ngày 06/02/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:05/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bình Long - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về