Bản án 05/2018/HNGĐ-ST ngày 05/01/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐỐP, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 05/2018/HNGĐ-ST NGÀY 05/01/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 05 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 25/2017/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2017 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2017/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2017 giữa các đương sự:

1.  Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Phương Tr– sinh năm: 1992 – có mặt;

2.  Bị đơn: Anh Hoàng Anh N – sinh năm: 1984 – vắng mặt; Cùng địa chỉ: Thôn 5, xã Th H, huyện B Đ, tỉnh B Ph.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn yêu cầu ly hôn đề ngày 20/9/2017, các biên bản làm việc tại tòa án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Phương Tr trình bày: Chị Tr và anh Hoàng Anh N kết hôn hoàn toàn tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã Thiện Hưng, huyện B Đ, tỉnh B Ph ngày 19/01/2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được 04 năm thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do hai vợ chồng thường xuyên cãi nhau, bất đồng quan điểm sống, anh N thường xuyên ăn nhậu không chăm lo đến cuộc sống của vợ con. Vì vậy cuộc sống vợ chồng luôn căng thẳng, sống không hạnh phúc.

Hiện tại vợ chồng tôi đã sống ly thân từ tháng 5/2017 cho đến nay.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung: Hoàng Ngọc Bảo Tr1, sinh ngày 11/10/2012. Kể từ khi vợ chồng sống ly thân  chị Tr là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung cho đến nay.

Tại phiên tòa chị Tr cương quyết yêu cầu Tòa án nhân dân huyện B Đ xét xử cho chị được ly hôn anh Hoàng Anh N và yêu cầu được tiếp tục trực tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con. Ngoài ra chị Trinh không yêu cầu gì thêm.

Tài sản chung; nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị Trinh không có yêu cầu gì khác;

Trong quá trình giải quyết vụ án: Tại biên bản tự ghi lời khai ngày 20/11/2017 và tại  biên bản hòa giải ngày 28 tháng 11 năm 2017 anh Hoàng Anh N thừa nhận lời trình bày của chị Tr là hoàn toàn đúng về phần quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung. Về nguyên nhân chính dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng là do vợ chồng không hợp tính nhau nên thường xuyên va chạm, vợ chồng đã sống ly thân được 04 tháng. Anh N vẫn còn rất thương vợ con nên anh không đồng ý ly hôn chị Tr mà có nguyện vọng yêu cầu Tòa án hòa giải để vợ chồng chị về chung sống đoàn tụ, nuôi dạy con cái.

Tại phiên tòa bị đơn anh Hoàng Anh N vắng mặt. Mặc dù đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng anh N vẫn vắng mặt không tham gia phiên tòa.

Căn cứ vào điểm b, khoản 2, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn anh Hoàng Anh N theo qui định của pháp luật.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng các đương sự không thống nhất giải quyết toàn bộ vụ án, chị Tr vẫn cương quyết ly hôn. Tòa án tiến hành hòa giải đoàn tụ không thành.

Các bên đương sự xác định đã cung cấp đầy đủ chứng cứ cho Tòa án, không còn cung cấp bất kỳ chứng cứ nào khác.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử sơ thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đều tuân theo đúng trình tự pháp luật quy định. Việc xác định tư cách những người tham gia tố tụng của Thẩm phán phù hợp với quy định của Luật tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định của pháp luật từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Xét đơn yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Phương Tr thuộc trường hợp “Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện B Đ được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về tố tụng: Bị đơn: Anh Hoàng Anh N mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về nội dung vụ án:

- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Phương Tr và anh Hoàng Anh N kết hôn hoàn toàn tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã Thi H, huyện B Đ, tỉnh B Ph vào ngày 19/01/2011. Xét đây là hôn nhân hợp pháp.

Tại phiên tòa chị Tr vẫn giữ nguyên quan điểm cương quyết yêu cầu được ly hôn anh N với lý do tình cảm vợ chồng không thể cải thiện được nữa do mâu thuẫn vợ chồng đã quá căng thẳng, mặc dù chị Tr đã cho anh N nhiều cơ hội sửa đổi tính tình nhưng anh N vẫn không thay đổi. Thời gian vợ chồng sống ly thân  hai người còn không quan tâm chăm sóc hỏi thăm lẫn nhau nữa. Mặc dù hai bên gia đình đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng chị Tr, anh N vẫn không hòa thuận.

Bị đơn vắng mặt. Trong quá trình giải quyết vụ án tại biên bản lấy lời khai ngày 20/11/2017 và tại  biên bản hòa giải ngày 28 tháng 11 năm 2017, anh Hoàng Anh N không đồng ý ly hôn chị Tr, anh N có nguyện vọng xin đoàn tụ; Chị Tr không đồng ý và cương quyết yêu cầu Hội đồng xét xử giải quyết cho chị được ly hôn anh N do chị không còn tình cảm với anh N nữa. Kể từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay anh N cũng không thay đổi. Vì vậy nếu tòa án có hòa giải cho vợ chồng chị về chung sống đoàn tụ thì tình cảm vợ chồng cũng không thể cải thiện được.

Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị Tr và anh N đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài. Mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của  chị Tr đối với anh N là hoàn toàn phù hợp với các qui định của pháp luật.

- Về con chung: Chị Tr trình bày: Vợ chồng anh chị đã có 01 người con chung tên: Hoàng Ngọc Bảo Tr1, sinh ngày 11/10/2012, hiện cháu Tr1 đang ở với chị Tr. Tại phiên tòa chị Tr tiếp tục yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung cho đến khi đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung.

- Xét  thấy cháu Tr1 còn nhỏ lại là con gái để đảm bảo cuộc sống ổn định về mọi mặt cũng như sự phát triển về tâm sinh lý bình thường của  trẻ em vị thành niên và hiện nay cháu Tr1 đang được chị Tr chăm sóc nuôi dưỡng kể từ khi vợ chồng sống ly thân. Hội đồng xét xử cần tiếp tục giao cháu Trâm cho chị Tr được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng việc yêu cầu nuôi con chung cho đến khi đủ 18 tuổi là hoàn toàn phù hợp với thực tế và phù hợp pháp luật.

-Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị Phương Tr không yêu cầu. Hội đồng xét xử không xét.

- Về tài sản chung; Nợ chung: Chị Tr không yêu cầu giải quyết. Hội đồng xét xử không xét.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị  Nguyễn Thị Phương Tr phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57, Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức, thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về tranh chấp ly hôn, yêu cầu nuôi con khi ly hôn”của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Phương Tr.

[1] .Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Phương Tr được ly hôn anh Hoàng Anh N.

[2]. Về con chung: Giao 01 con chung Hoàng Ngọc Bảo Tr1, sinh ngày 11/10/2012 cho chị Tr được quyền trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Anh  N không phải cấp dưỡng nuôi con chung và được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được quyền ngăn cản.

Căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung sau khi ly hôn theo Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3].Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Phương Tr phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Tr đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đốp theo biên lai thu tiền số 001697443 ngày 14/11/2017.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2018/HNGĐ-ST ngày 05/01/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:05/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đốp - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về