TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 05/2017/HSPT NGÀY 07/11/2017 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI DO VƯỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG
Vào ngày 07 tháng 11 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân nhân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 38/2017/TLPT-HS ngày 18 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo Trương Công T về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của bị cáo, kháng cáo của người bị hại và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đối với bản án hình sự sơ thẩm số 44/2017/HSST ngày 08/09/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.
* Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo và bị kháng nghị:
Trương Công T, sinh ngày 20/01/1986; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ 08, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 07/12; Nghề nghiệp: Thợ cơ khí; Con ông Trương Công X (s) và bà Nguyễn Thị Nh (s); Có vợ là Đặng Thị Kim H và có 02 con (Lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2006); Tiền án, tiền sự: Chưa. Bị cáo bị bắt giam ngày 19/12/2016, Có mặt.
* Người bị hại: Ông Trần Quốc Th (Rin), sinh năm 1986; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ 16A phường H, quận C, TP Đà Nẵng, Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Các bị cáo Trương Công T bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 19/12/2016, sau khi nhậu xong tại nhà Trương Công T để mừng cho Trương Công Đ xuất viện, T rủ Đặng Thị Kim H (là vợ của T), Trương Công Đ, Trương Công H, Trương Thị Thu H1 là các em ruột của T và một số người bạn khác gồm Đỗ Văn Lợi, Hồ Chí Ph, Khưu Quốc Đ1, Nguyễn Hữu T1, Lê Quý C cùng nhau đến quán Trí Thịnh hát Karaoke trên đường Bắc Sơn, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng. Trong quá trình hát karaoke tại đây giữa H1 và Ph xảy ra mâu thuẫn, Ph có hành động chọc ghẹo H1, dùng vỏ lon bia ném vào người H1 nhiều lần, H1 dùng ly có chứa bia tạt vào mặt anh Ph, Ph đòi đánh H1. Lúc này, T và Cường đến nắm cổ áo và bóp cổ Ph và nói “Sao lại có hành động như vậy, ông say rồi về đi”. Thấy vậy mọi người trong nhóm can ngăn ra. T gọi điện thoại cho chị Nguyễn Thị P (sống như vợ chồng với Ph) báo là Ph nhậu say nên nói P đến chở Ph về và tính tiền ra về. Tại bãi đỗ xe của quán Trí Thịnh, Ph điều khiển xe về trước, mọi người trong nhóm cùng về. Sau khi nghe T điện thoại xong thì chị P có nhờ Trần Quốc Th đi tìm Ph. Sau khi về đến nhà, Ph đến nhà T để hỏi chuyện. Tại đây, có T, H, Đ, H1 và một số người khác cũng đang đứng trước nhà T, Ph đến hỏi T “Vì sao chưa biết đầu đuôi câu chuyện mà đến bóp cổ ta” anh T nói “Ông say rồi, ông về đi, có gì mai nói chuyện”. Lúc này chị P và anh Th đến Ph kể lại sự việc như trên cho P và Th nghe, Th đến gặp T và hỏi “Sao lúc nãy mi đánh ông Ph, mi muốn gì”, T trả lời “Tao bóp cổ ông Ph đó, chuyện của ta và ông Ph mi hỏi ta làm gì”. Nói xong T và Th xông vào xô xát với nhau nhưng được mọi người can ngăn. Th nói “Mi chờ ta chút” rồi chạy về hướng nhà Th, T cũng vào nhà cầm cái xẻng ra nhưng được vợ can ngăn kéo T vào nhà. Khoảng 05 phút sau, Th cầm kiếm tự tạo dài khoảng 65cm quay lại thì gặp Trương Công H đang đứng ở đây nên đuổi H, H bỏ chạy. Thấy vậy người dân ở đây hô hoán lớn tiếng nên T chạy ra trước nhà thì thấy Th cầm kiếm đuổi đánh H, T chạy vào nhà lấy cái xẻng dài khoảng 160cm rồi chạy ra ngoài đuổi đánh Th để giải vây cho H. H chạy được một đoạn về phía cổng chào của tổ 16A, phường H thì bị vấp ngã xuống đất. Vì biết T đuổi theo sau nên Th chạy ngang qua vị trí H ngã khoảng 01m thì cầm kiếm quay lại. T cầm xẻng chạy đến đứng đối diện với Th, Th cầm kiếm chém về phía T nhưng không trúng, T cầm xẻng bằng hai tay đưa lên cao đánh xuống trúng vào đầu của Th làm Th ngã gục tại chỗ. Lúc này T thấy có ai ném đá về phía mình, T đi đến phía cổng chào thì gặp Cu Lỳ (tức là Nguyễn Nhật Huy, sinh năm 1997, trú tổ 25A, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng) đang cầm cây kiếm tự tạo có vỏ bọc bằng gỗ, T nói “Tại sao ném đá anh”, thì Cu Lỳ vứt kiếm xuống đất rồi bỏ chạy. Th được mọi người đưa đi cấp cứu còn T sau đó được đưa về phường H và khai nhận toàn bộ hành vi của mình.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 64/TgT ngày 07/03/2017 của Trung tâm pháp y thành phố Đà Nẵng kết luận: Trần Quốc Th bị thương tích gồm các dấu vết sau:
- Ổ khuyết não vùng đỉnh - chẩm trái đường kính 30mm.
- Khuyết sọ (cửa sổ phẫu thuật) vùng đỉnh - chẩm trái đường kính 50mm.
Kết luận chấn thương sọ não: Vỡ xương hộp sọ, tụ máu và khí nội sọ, dập não, rách màng cứng, đã được phẫu thuật mở rộng vết thương, lấy xương vụn, máu tụ, não dập, vá màng cứng, cầm máu, dẫn lưu. Hiện tại xương hộp sọ có ổ khuyết, đáy chắc, nạn nhân tỉnh, tiếp xúc được, không phát hiện yếu liệt chi, không còn ổ dịch trên phim CT Scanner sọ não kiểm tra.
Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 59%.
* Tại bản án hình sự sơ thẩm số 44/2017/HSST ngày 08/9/2017, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Trương Công T phạm tội “Giết người”.
Áp dụng: khoản 2 Điều 93; Điểm b, đ, p khoản 1 khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Xử phạt: Trương Công T 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam ngày 19/12/2016.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 19/9/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có Kháng nghị số 01/QĐ-KNPT kháng nghị một phần bản án theo hướng buộc bị cáo phạm tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo khoản 1 Điều 95 Bộ luật hình sự.
- Ngày 09/9/2017, bị cáo Trương Công T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
- Ngày 20/9/2017 người bị hại ông Trần Quốc Th kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu, đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện, tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trương Công T khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ kết luận:
Người bị hại là ông Trần Quốc Th có hành vi cầm kiếm tự tạo dài 65cm đuổi đánh Trương Công H là em ruột của bị cáo Trương Công T. Nên T vào nhà lấy xẻng dài 160cm đuổi đánh Trần Quốc Th để giải vây cho Trương Công H, H chạy một đoạn bị vấp ngã xuống đất.
Vì biết bị cáo Trương Công T đuổi theo sau nên bị hại anh Trần Quốc Th chạy qua khỏi chỗ H ngã nằm xuống cách 1 mét, và cầm kiếm quay lại. Bị cáo T cầm xẻng đứng đối diện với Th, Th cầm kiếm chém về phía bị cáo Trương Công T nhưng không trúng, T cầm xẻng bằng hai tay đưa lên cao, đánh xuống trúng vào đầu của Th làm bị hại Trần Quốc Th gục ngã tại chỗ.
Bị hại Trần Quốc Th không chết, chỉ bị thương tích, được giám định pháp y kết luận tỉ lệ 59%.
[2] Xét án sơ thẩm áp dụng khoản 2 Điều 93 của Bộ luật hình sự để xử bị cáo Trương Công T về tội “Giết người” là không chính xác.
Bởi lẽ, Hành vi của bị hại anh Trần Quốc Th dùng kiếm tự tạo dài 65cm để chém bị cáo Trương Công T, tuy không trúng bị cáo T nhưng đây là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân, xâm phạm đến bị cáo T bằng cách dùng kiếm chém về phía bị cáo T. Nên bị cáo Trương Công T dùng xẻng đánh vào đầu bị hại Trần Quốc Th là hành động giết người do vượt quá giới hạn phòng về chính đáng.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng thay đổi nội dung kháng nghị về tội danh, đề nghị HĐXX cấp phúc thẩm xử bị cáo Trương Công T về tội “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật hình sự.
Đề nghị và thay đổi nội dung kháng nghị phúc thẩm là phù hợp với nhận định của HĐXX, nên có căn cứ chấp nhận kháng nghị.
[4] Do vậy, có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và không chấp nhận kháng cáo của bị hại. Sửa bản án sơ thẩm về phần tội danh và xét xử bị cáo mức hình phạt tương xứng cho đúng pháp luật.
Án phúc thẩm, do sửa tội danh nên không áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Tuy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại các điểm b, đ, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, nhưng mức hình phạt 02 (hai) năm tù là phù hợp và tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.
[5] Về án phí HSPT: Do bị cáo Trương Công T kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248; Khoản 3 Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự.
QUYẾT ĐỊNH
[1] Không chấp nhận kháng cáo của bị hại ông Trần Quốc Th.
- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Công T.
- Chấp nhận kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐ-KNPT ngày 19/9/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng. Sửa bản án sơ thẩm số 44/2017/HSST ngày 06/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng về phần tội danh và hình phạt.
Áp dụng khoản 1 Điều 96; điểm b, đ, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 18; Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 1999.
Xử phạt bị cáo Trương Công T 02 (hai) năm tù về tội “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 19/12/2016.
[2] Về án phí HSPT: Bị cáo Trương Công T không phải chịu.
[3] Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án 05/2017/HSPT ngày 07/11/2017 về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Số hiệu: | 05/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về