Bản án 04/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 26 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 71/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 01 năm 2021 đối với:

Bị cáo: Trần Minh T, sinh năm 1982 tại xã A, huyện X, tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: tổ dân phố An Đoài, thị trấn X, huyện X, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Xuân H( đã chết) và bà Trần Thị H; Có vợ là chị Phạm Thị Th; có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2017.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 14/8/2001 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kiến Xương khởi tố bị can về tội “ Cố ý gây thương tích” đến ngày 19/12/2001 Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án do người đã có đơn yêu cầu tự nguyện rút đơn yêu cầu.

Từ năm 2003 đến năm 2005 tham gia nghĩa vụ quân sự đóng quân tại Lữ đoàn 214 Quân khu 3.

Bản án số: 63/2008/HSST ngày 05/11/2008 của Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xử phạt Trần Minh T 24 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS, “ đã được xóa án tích”.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/9/2020 đến ngày 23/9/2020 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ công an huyện Kiến Xương; Bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 20/9/2020 tại khu vực cổng xí nghiệp gạch S, thuộc tổ dân phố T, thị trấn X qua kiểm tra, công an huyện Kiến Xương phát hiện Trần Minh T tàng trữ tại túi quần phía trước bên phải 01 gói giấy có dòng kẻ, tại túi quần phía trước bên trái một bơn kim tiêm, bên trong đều chứa chất bột màu trắng dạng cục. Qua giám định tất cả đều là hê rô in có tổng khối lượng là 0,1941 gam. Nguồn gốc số hê rô in trên là do T mua của một người không quen biết tại khu vực bến xe Thái Bình với giá 100.000 đồng mục đích để bản thân sử dụng. Trên đường đi T có mua 01 bơm kim tiêm và 01 ống nước cất, rồi về khu vực xí nghiệp S, thuộc tổ dân phố T, thị trấn X lấy một phần ma túy mua được cho vào bơm kim tiêm định sử dụng, do đông người T không sử dụng nữa nên cho vào túi quần thì bị bắt quả tang.

Vật chứng vụ án: Thu giữ của Trần Minh T 01 gói hê rô in và 01 bơm kim tiêm có chứa hê rô in, tổng khối lượng là 0,1941 gam.

Tại bản kết luận giám định số 349/KLGĐMT-PC09 ngày 21/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình ghi: Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Hê rô in có khối lượng 0,1941 gam.

Cáo trạng số 01/CT-VKSKX ngày 15/12/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương truy tố Trần Minh T về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố trong bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm 6 tháng đến 01 năm 9 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu của bị cáo 0,1040 gam Hê rô in còn lại sau giám định để tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo khai nhận do nghiện ma túy nên đã mua về sử dụng, không có ý kiến gì về bản kết luận giám định, không có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Kiến Xương, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, ngoài ra hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các chứng cứ sau đây:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Kiến Xương lập hồi 13 giờ 50 phút ngày 20/9/2020;

- Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu do Công an huyện Kiến Xương lập hồi 14 giờ 50 phút ngày 20/9/2020;

- Kết luận giám định số 349/KLGĐMT-PC09 ngày 21/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

- Lời khai của những người chứng kiến: ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1952 trú tại tổ dân phố T, thị trấn X, huyện Kiến Xương và anh Trương Ngọc D, sinh năm 1974 trú tại tổ dân phố T, thị trấn X, huyện Kiến Xương.

[3] Từ những căn cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 20/9/2020 tại khu vực cổng xí nghiệp gạch Sông Hồng thuộc tổ dân phố Thống Nhất, thị trấn Kiến Xương, Trần Minh T đã tàng trữ trái phép 0,1491 gam Hê rô in để bản thân sử dụng.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

……… c. Hê rô in, côcain, Methamphetanmine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

……… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Bị cáo đã từng bị xử phạt tù về tội ma túy, nhận thức đầy đủ tác hại của việc sử dụng ma túy song do ham chơi, coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn tiếp tục tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Vì vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự; được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo và có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy cần giảm cho bị cáo một phần hình phạt là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua của một người đàn ông không rõ tên, địa chỉ tại bến xe Thái Bình. Cơ quan công an đã điều tra nhưng không xác định được người bán ma túy cho T nên không có căn cứ để xử lý.

[8] Về xử lý vật chứng: 0,1941 gam Hê rô in, sau khi giám định còn lại 0,1040 gam là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Bị cáo Trần Minh T phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điều 106, 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Minh T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

2.Xử phạt bị cáo Trần Minh T 01 ( một) năm 09 ( chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 20/9/2020.

3.Về xử lý vật chứng: Tịch thu của bị cáo Trần Minh T 0,1040 gam Hê rô in còn lại sau giám định để tiêu hủy (theo như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản kê biên giữa Công an huyện Kiến Xương và Chi cục thi hành án dân sự huyện Kiến Xương ngày 23/12/2020).

4. Về án phí: Bị cáo Trần Minh T phải chịu 200.000( hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 26/01/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:04/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về