Bản án 04/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội tàng trữ hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 26 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 148/2020/HSST ngày 18 tháng 12 năm 2020, Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2020/QĐXXST-HS, ngày 14 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Văn Th . Tên gọi khác: không. Giới tính: Nam. Sinh ngày 23/9/200, tại huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Xóm 11, xã C Th , huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt nam. Dân tộc: kinh. Tôn giáo: Thiên chúa giáo. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Họ và tên cha: Phạm Văn T ( 1970). Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Tr (1972). Anh chị em ruột: gia đình có 08 chị em, Th là con thứ năm trong gia đình. Vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/11/2020 đến ngày 22/11/2020, đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Văn T ; sinh năm 1970; trú quán: Xóm 11, xã C Th , huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. (Có mặt)

* Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Phúc V ; sinh năm 1976; địa chỉ: xóm 12; xã C Th , huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. ( vắng mặt)

- Ông Phạm Hữu Ng ; sinh năm 1985; địa chỉ: xóm 12; xã C Th , huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. ( có mặt)

- Bà Phạm thị N; sinh năm 1940; địa chỉ: xóm 12; xã C Th , huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. ( vắng mặt)

- Bà Bùi Thị H; sinh năm 1977; địa chỉ: xóm 5; xã L Th , huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. ( vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào trưa ngày 12 tháng 11 năm 2020 anh Nguyễn Phúc V sinh năm 1976 thấy có 01 thùng các tông để ở góc cổng nhà mình nghi là pháo định trình báo công an, ngay lúc đó tổ công tác Công An huyện Yên Thành kịp đến nhà anh Nguyễn Phúc V và tiến hành kiểm tra thùng các tông thì phát hiện bên trong có chứa 10( mười ) khối hình hộp chữ nhật thước 15 x 15 x 15cm bên ngoài có in hình pháo nổ cháy sáng và trong túi ni long màu đen có 02( hai ) khối hình hộp chữ nhật thước 15 x 20 x 20cm bên ngoài có in hình pháo nổ cháy sáng. Tổ công tác công an huyện Yên Thành đã lập biên bản sự việc và thu giữ niêm phong T bộ tang vật.

Đến 16 giờ 00 ngày 13/11/2020 Phạm Văn Th đã đến Công an huyện Yên Thành xin đầu thú và khai nhận T bộ hành vi phạm tội của mình như sau: Khoảng 11 giờ ngày 12/11/2020 bị cáo đang điều khiển xe gắn máy Yamaha Sirius màu đỏ đen, BKS 37P1 -06178 ( xe mang tên ông Phạm Văn T là bố đẻ của Th ) trên đường đi làm về thì thấy một người đàn ông không quen biết đang đứng ở xóm 10, xã C Th , huyện Yên Thành, Nghệ An, người đàn ông này hỏi Th có mua pháo không? Th nhìn người đàn ông và hộp các tông bên cạnh người nên Th hỏi: “ Giá pháo bao nhiêu tiền”, người đàn ông trả lời “mỗi bánh pháo là 250.000đồng” T bộ là 12 bánh tổng 3.000.000đ( ba triệu đồng). Thấy rẻ nên Th bảo người đàn ông đó đứng chờ và đi mượn tiền, Th đến mượn tiền của anh Phạm Hữu Ng , sinh năm 1985, trú tại xóm 11, xã C Th , huyện Yên Thành, Nghệ An đưa cho người đàn ông và chở pháo về nhằm mục đích sử dụng, trên đường chở về thì Th thấy lực lượng Công an, do lo sợ Th đã chở hộp pháo đến nhà anh Nguyễn Phúc V ; sinh năm 1976; trú tại xóm Bắc V , xã C Th , huyện Yên Thành để gửi sau đó gửi xe tại nhà chị Bùi Thị Hà sinh năm 1977 tại xóm 5, xã L Th , huyện Yên Thành rồi bỏ đi. Số pháo trên đã bị Công an thu giữ.

Ngày 13/11/2020, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Nghệ An đã thành lập Hội đồng, tiến hành mở niêm phong xác định 10( mười ) khối hình hộp chữ nhật thước 15 x 15 x 15cm và trong túi ni long màu đen có 02( hai ) khối hình hộp chữ nhật thước 15 x 20 x 20cm bên ngoài có in hình pháo nổ cháy sáng thu giữ của Th là 16,9 kg. ( mười sáu phẩy chín kilogam).

Tại Bản Kết luận giám định số 263/KL-PC09 (DD2 - CN) ngày 20/11/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu vật (ký hiệu M1, M2) thu giữ của Phạm Văn Th gửi giám định đều là pháo có đầy đủ các đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ).

Bị cáo Phạm Văn Th đã khai nhận hành T bộ hành vi phạm tội của mình, tàng trữ 12 khối pháo có khối lượng 16,9 kg. ( mười sáu phẩy chín kilogam).

Tại bản cáo trạng số 10/VKS - HS ngày 16 tháng 12 năm 2020 cũng như tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An giữ nguyên Quyết định truy tố Phạm Văn Th về tội “Tàng trữ hàng cấm” Đề nghị Hội đồng xét xử Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng; đề nghị áp dụng khoản 4 Điều 191 BLHS phạt bổ sung đối với bị cáo từ 10 đến 12 triệu đồng.

- Áp dụng khoản 1, điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy 12,5 kg pháo còn lại vật chứng của vụ án.

- Đối với chiếc xe gắn máy Yamaha Sirius màu đỏ đen, BKS 37P1 -06178 ( xe mang tên ông Phạm Văn T là bố đẻ của Th đã trả lại cho ông T là hợp pháp.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; buộc bị cáo phải chịu 200.000Vnđ án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận và trình bày sự hối hận với hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đối với người đàn ông bán pháo cho Th , sau khi điều tra xác minh nhưng chưa có căn cứ cơ quan Công an huyện Yên Thành tiếp tục xác minh xử lý sau; anh Phạm Hữu Ng cho Th mượn tiền nhưng không biết Th mượn tiền để mua pháo nên không có căn cứ xử lý đối với anh Ng . Anh Nguyễn Phúc V là chủ nhà cho Th gửi hộp các tông nhưng với tinh thần cảnh giác anh V đã trình báo với Công an huyện để thu giữ vật chứng nên anh V không vi phạm Pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận: T bộ hành vi phạm tội của mình về tàng trữ trái phép 16,9 kg pháo.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng vụ án và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án.

[3]. Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền của nhà nước trong quản lý một số loại hàng cấm tàng trữ, vận chuyển, lưu thông trên thị trường. Vì vậy cần phải xử lý bằng một mức án nghiêm mới có tác dụng cải tạo và phòng ngừa chung. Nhưng trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 BLHS; Xét bị cáo có chỗ ở rõ ràng, nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên không nhất thiết phải cách ly khỏi đời sống xã hội mà tiếp tục giao cho gia đình và chính quyền địa phương quản lý giám sát cũng là phù hợp.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng trong độ tuổi lao động có thu nhập nên cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 4 điều 191 BLHS mới đủ răn đe.

[5]. Vật chứng của vụ án gồm: Thu giữ của Th là 16,9 kg ( đã lấy đi giám định còn lại 12,5 kg). Xét đây là vật cấm lưu hành vì vậy cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe gắn máy Yamaha Sirius màu đỏ đen, BKS 37P1 -0618 ( xe mang tên ông Phạm Văn T là bố đẻ của Th ) xét thấy chiếc xe không liên quan đến vụ án Cơ quan Công an đã trả lại cho ông T là hợp pháp.

[6]. Đối với người đàn ông bán pháo cho Th , sau khi điều tra xác minh nhưng chưa có căn cứ cơ quan Công an huyện Yên Thành tiếp tục xác minh xử lý sau; anh Phạm Văn Ng cho Th mượn tiền nhưng không biết Th mượn tiền để mua pháo nên không có căn cứ xử lý đối với anh Ng . Anh Nguyễn Phúc V là chủ nhà cho Th gửi hộp các tông nhưng với tinh thần cảnh giác anh V đã trình báo với Công an huyện để thu giữ vật chứng nên anh V không vi phạm Pháp luật, nên miễn xét.

[7] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm.

Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp, cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 4 Điều 191 ; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn Th phạm tội " Tàng trữ hàng cấm ". Xử phạt bị cáo Phạm Văn Th 12 ( mười hai ) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 ( hai mươi bốn ) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Phạm Văn Th cho Ủy ban nhân dân xã C Th , huyện Yên Thành, Nghệ An quản lý, giám sát trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi làm việc thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

- Phạt bổ sung đối với Phạm Văn Th số tiền 10.000.000đ ( Mười triệu đồng) để nộp vào ngân sách nhà nước.

2.Về vật chứng vụ án: Căn cứ khoản 1, điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy số pháo còn lại 08(tám) khối hình hộp chữ nhật thước 15 x 15 x 15cm và 01( một ) khối hình hộp chữ nhật thước 15 x 20 x 20cm với tổng khối lượng 12,5 kg (Vật chứng hiện có tại kho vật chứng Công an huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt khi tuyên án có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội tàng trữ hàng cấm

Số hiệu:04/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về