Bản án 04/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 185/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 197/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh ngày 15 tháng 8 năm 1982 tại Thái Bình; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn 5B, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1954; con bà: Vũ Thị Đ1, sinh năm 1962; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; vợ: Vũ Thị L, sinh năm 1987, có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2016; tiền sự, tiền án: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/11/2020 đến ngày 12/11/2020 chuyển tạm giam đến nay. Hiện bị can đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thái Bình; có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Vũ Thị L, sinh năm 1987; Địa chỉ: Thôn 5B, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình; có mặt.

- Người chứng kiến:

1. NCK1, sinh năm 1986; Trú quán: Số nhà 37, tổ 14, phường K, thành phố Th; vắng mặt.

2. NCK2, sinh năm 1975; Trú quán: Số nhà143, tổ 17, phường K, thành phố Th; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ 00 phút ngày 09/11/2020 Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu xanh, biển kiểm soát 17H3-4924 từ nhà đến khu vực ngõ 02, đường H, tổ 11, phường Q, thành phố Th, tỉnh Thái Bình. Tại đây Thành gặp một người phụ nữ Thành không biết tên, tuổi, địa chỉ đang đứng một mình, Thành hỏi người phụ nữ “chị có ma túy không bán cho em 1.000.000 đồng”, người phụ nữ trả lời “có, đưa tiền đây”, Thành đưa cho người phụ nữ 1.000.000 đồng, người phụ nữ nhận tiền và đưa cho Thành 05 gói bên ngoài đều được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, Thành nhận lấy và cầm ở lòng bàn tay trái của Thành, sau đó điều khiển xe mô tô đi tìm chỗ vắng để chia nhỏ các gói ma túy mục đích để bán kiếm lời. Khoảng 11 giờ 15 phút cùng ngày khi Thành đi đến khu vực ngõ 02, đường H, tổ 04, phường Q, thành phố Th, thì bị tổ công tác của Công an thành phố Thái Bình yêu cầu Thành dừng xe lại để kiểm tra vì nghi có liên quan đến ma túy. Trước sự chứng kiến của NCK1 và NCK2, Thành tự giác đưa từ lòng bàn tay trái của Thành giao nộp cho tổ công tác 05 gói được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, mở kiểm tra bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, Thành khai nhận là ma túy của Thành mua để chia nhỏ bán kiếm lời. Tổ công tác đã niêm phong 05 gói ma túy trong phong bì dán kín, trên mép dán niêm phong có chữ ký của Thành và những người chứng kiến. Sau đó, tổ công tác yêu cầu Thành đưa xe mô tô và mời người làm chứng về trụ sở Công an phường Q, thành phố Th, tỉnh Thái Bình để làm việc. Tại đây, kiểm tra người Thanh thu tại túi quần bên trái 01 điện thoại Nokia 110 màu đen và số tiền 635.000 đồng, ngoài ra không phát hiện thu giữ gì. Kiểm tra xe máy của Thành không phát hiện thu giữ gì. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản niêm phong vật chứng, quản lý phương tiện theo quy định của pháp luật.

ng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn T tại thôn thôn 5B, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình. Qua khám xét không phát hiện, thu giữ gì.

Tại bản kết luận giám định số 402/KLGĐ-PC09 ngày 10/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Vật chứng trong phong bì niêm phong gửi giám định thu giữ của Nguyễn Văn T là ma túy, loại hêrôin, có khối lượng 0,5989 gam”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình nêu trên.

Bản cáo trạng số: 05/CT-VKSTP ngày 29 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo như đã nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

* Về hình phạt: Áp dụng khoản 1, 5 Điều 251, điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 09/11/2020; phạt bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy trong phong bì, bên ngoài ghi: “số 402/KLGĐ-PC09 mẫu vật hoàn trả sau giám định”.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T 01 điện thoại Nokia 110 màu đen (đã qua sử dụng) và số tiền 635.000 đồng, nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo không có ý kiến và tranh luận gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Vũ Thị L trình bày, không có ý kiến gì về tài sản chị đã nhận. Chị đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo Nguyễn Văn T để bị cáo yên tâm cải tạo.

Bị cáo Nguyễn Văn T nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 09/11/2020, tại khu vực ngõ 02, đường H, tổ 04, phường Q, thành phố Th, tỉnh Thái Bình tổ công tác Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi cất giấu trái phép 0,5989 gam hêrôin, mục đích để chia nhỏ bán kiếm lời. Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 11 giờ 25 phút ngày 09/11/2020, tại trụ sở Công an phường Q, thành phố Th; các biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an tỉnh Thái Bình lập, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự, quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

…….

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến năm 5 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiêm của Nhà nước, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội, đi ngược lại với cuộc đấu tranh bài trừ tệ nạn ma túy. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn T thành khẩn khai báo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[5] Trên cơ sở đánh giá tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội nhưng cũng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét thấy bị cáo Nguyễn Văn T thực hiện phạm tội mục đích bán ma túy để kiếm lời, nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[7] Về xử lý vật chứng:

[7.1] Cơ quan Công an thu giữ của bị cáo 01 túi ma túy, loại hêrôin có khối lượng 0,5989 gam được niêm phong trong phong bì niêm phong số 402/KLGĐ-PC09 là vật Nhà nước cấm lưu hành, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[7.2] Cơ quan Công an thu của bị cáo Nguyễn Văn T: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 110 vỏ màu đen và số tiền 635.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo Thi hành án.

[7.3] Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu xanh đen, biển kiểm soát 17H3 – 4924, qua xác minh xe đăng ký đứng tên Nguyễn Văn T, là tài sản chung của Thành và vợ là chị Vũ Thị L. Ngày 09/11/2020 Thành sử dụng xe máy đi mua ma túy chị L không biết. Ngày 24/11/2020 Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã trả lại chiếc xe trên cho chị L. Chị L không có ý kiến gì nên không đặt ra giải quyết.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo Nguyễn Văn T khai mua của một người phụ nữ không biết tên, địa chỉ tại khu vực ngõ 02, đường H, tổ 11, phường Q, thành phố Th, tỉnh Thái Bình nên Cơ quan điều tra không có căncứ để điều tra, xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1,5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điều 106, 136, 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo bị cáo Nguyễn Văn T 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 09/11/2020.

- Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Văn T số tiền 5.000.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy trong phong bì, bên ngoài ghi: “số 402/KLGĐ-PC09 mẫu vật hoàn trả sau giám định”.

3.2. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 110 màu xanh đen đã qua sử dụng và số tiền 635.000 đồng, nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo Thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an tỉnh Thái Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ngày 29 tháng 12 năm 2020 ).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (14/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về