Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 31/03/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 31 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 48/2020/TLST – HNGĐ ngày 20 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị D, sinh năm 1989 Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn B, xã M, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Anh Ma Hoàng L, sinh năm 1984 Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn B, xã M, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 10/11/2020 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Lê Thị D trình bày: Chị và anh Ma Hoàng L đăng ký kết hôn ngày 25 tháng 5 năm 2010 tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Việc kết hôn do hai bên tự nguyện, không bị cưỡng ép, ép buộc. Sau khi kết hôn chị và anh L chung sống tại thôn B, xã M, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Vợ chồng chị bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn từ năm 2015 do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, anh L thường xuyên say rượu không tu chí làm ăn. Chị và anh L ly thân từ năm 2018 đến nay. Từ khi ly thân chị không quan tâm đến anh L nữa. Nay chị xác định không còn tình cảm với anh L, yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn.

Về con chung: Chị và anh L có 01 con con chung là Ma Hoàng Bảo H, sinh ngày 02/3/2012, con khỏe mạnh, phát triển bình thường. Khi ly hôn tôi nhất trí giao con cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi (phù hợp với nguyện vọng của con).

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, tôi cũng nhất trí.

Về tài sản chung: Chị và anh L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về vay nợ chung: Chị và anh L không có vay nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Biên bản lấy lời khai và quá trình giải quyết vụ án anh Ma Hoàng L trình bày: Anh và chị Lê Thị D đăng ký kết hôn vào ngày 25 tháng 5 năm 2010 tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Việc kết hôn do hai bên tự nguyện, không bị cưỡng ép, ép buộc. Quá trình chung sống vợ chồng anh không phát sinh mâu thuẫn và không biết lý do gì chị D xin ly hôn. Nay chị D xin ly hôn anh không nhất trí.

Về con chung: Anh và chị D có 01 con con chung là Ma Hoàng Bảo H, sinh ngày 02/3/2012, con khỏe mạnh, phát triển bình thường. Khi ly hôn tôi có nguyên vọng trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh L không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh và chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về vay nợ chung: Anh và chị D không có vay nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành giao Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ đối với bị đơn là anh Ma Hoàng L để tham gia tố tụng tại Tòa án nhưng anh L đều vắng mặt không có lý do. Do đó, vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được nên Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử công khai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật: Chị Lê Thị D và anh Ma Hoàng L có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Quá trình chung sống có phát sinh mẫu thuẫn nên chị D khởi kiện xin ly hôn và giải quyết về nuôi con chung do đó quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 và Điểm a, khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về thủ tục tố tụng:

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã hai lần tiến hành giao Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đối với bị đơn là anh Ma Hoàng L để tham gia tố tụng tại Tòa án. Anh L trực tiếp ký nhận văn bản của Tòa án nhưng anh L đều vắng mặt không có lý do. Do đó, vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ Luật tố tụng Dân sự nên Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử công khai theo quy định.

[3]. Xét về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh L đăng ký kết hôn và chung sống với nhau từ năm 2010. Đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn do anh L thường xuyên uống rượu và say rượu, không tu chí làm ăn. Qua xác minh tại địa phương thể hiện anh Ma Hoàng L hay uống rượu, mỗi khi say rượu anh L lại chửi mắng vợ, con, gia đình và chính quyền thôn cũng đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh L không thay đổi. Thực tế anh L và chị D đã sống ly thân. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị D khẳng định không còn tình cảm gì với anh L. Như vậy có thể xác định mâu thuẫn giữa chị D và anh L đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận việc xin ly hôn của chị D.

[4]. Về con chung: Chị D và anh L có 01 con con chung là Ma Hoàng Bảo H, sinh ngày 02/3/2012, con khỏe mạnh, phát triển bình thường. Khi ly hôn chị D nhất trí giao con cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi (phù hợp với nguyện vọng của con) và anh L cũng có nguyện vọng nuôi con. Do đó giao con chung cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh L không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết

[6]. Về tài sản chung: Chị D và anh L không yêu cầu Tòa án giải quyết do đó không xem xét giải quyết.

[7]Về vay nợ chung: Chị D và anh L không có vay nợ chung nên không xem xét giải quyết.

[8]. Về án phí: Chị Lê Thị D thuộc diện hộ nghèo và có đơn xin miễn toàn bộ án phí do đó căn cứđiểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, khoản 6 Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn toàn bộ án phí cho chị D.

[9]. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký và những người tham gia tố tụng và không có yêu cầu, kiến nghị gì về tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D. Về con chung: Giao con chung cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và miễn toàn bộ án phí cho chị D, về cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung, vay nợ chung không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2014 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị D.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị D được ly hôn với anh Ma Hoàng L.

- Về con chung: Chị Lê Thị D và anh Ma Hoàng L có 01 con chung là Ma Hoàng Bảo H, sinh ngày 02/3/2012, con khỏe mạnh, phát triển bình thường. Khi ly hôn giao con chung cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi (phù hợp với nguyện vọng của con).

Chị D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh L không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết

- Về tài sản chung: Chị D và anh L không yêu cầu Tòa án giải quyết do đó không xem xét giải quyết.

-Về vay nợ chung: Chị D và anh L không có vay nợ chung nên không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, khoản 6 Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí.

Chị Lê Thị D được miễn toàn bộ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chị D được hoàn lại số tiền 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 08778 ngày 20/11/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện B. Anh L không phải chịu án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành bản án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 31/03/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Bể - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về