Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 13/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH L

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 13 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 558/2020/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 12 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 139/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Mai Ngọc A, sinh năm 1990, cư trú tại: ấp 2, xã L1, huyện C, tỉnh L, (có mặt)

Bị đơn: Ông Huỳnh Thanh L2, sinh năm 1992, cư trú tại: Ấp 4, xã L1, huyện C, tỉnh L, (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt ngày 25/12/2020).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo lời trình bày của nguyên đơn bà Mai Ngọc A cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án như sau:

Bà A và ông L2 tổ chức lễ cưới vào năm 2010, có thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã L1 và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 45, quyển số 01, ngày 13/6/2011. Hôn nhân của vợ chồng bà là tự nguyện, trước khi cưới nhau, bà và ông L2 có tìm hiểu nhau được ba năm. Sau khi cưới nhau, vợ chồng bà A về chung sống bên gia đình bà A. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian đầu. Đến tháng 7/2012, bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp nhau, thường xuyên cãi nhau, ngoài ra vợ chồng bà A còn có mâu thuẫn về kinh tế gia đình, vợ chồng không thống nhất được việc chi tiêu trong gia đình, thu nhập của mỗi người tự sử dụng riêng. Bà A có tìm giải pháp khắc phục mâu thuẫn vợ chồng để duy trì quan hệ hôn nhân nhưng không có kết quả. Từ tháng 7/2012, ông L2 đã bỏ nhà ra đi, không còn chung sống với bà A từ đó cho đến nay. Bà A nhận thấy không còn tình cảm với ông L2 nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà A và ông L2 được ly hôn.

Về con chung: bà A và ông L2 chung sống có một người con chung tên Huỳnh Mai Nhựt Khanh, sinh ngày 12/7/2011. Hiện nay, cháu Khanh đang sống với bà A. Khi ly hôn, bà A yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Khanh, không yêu cầu ông L2 cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: bà A xác định không có.

Về nợ chung: bà A xác định không có.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Huỳnh Thanh L2. Ông L2 không có ý kiến phản hồi về yêu cầu của bà A và cũng không đến Tòa án giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: bà Mai Ngọc A khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Huỳnh Thanh L2, ông L2 có nơi cư trú tại ấp 4, xã L1, huyện C, tỉnh L nên Tòa án nhân dân huyện C thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1 Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Ông Huỳnh Thanh L2 có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt đề ngày 25/12/2020, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt ông L2.

[2] Về hôn nhân: bà Mai Ngọc A và ông Huỳnh Thanh L2 có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã L1 cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 45, quyển số 01, ngày 13/6/2011, nên xác định hôn nhân giữa bà A và ông L2 là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Bà A cho rằng thời giA chung sống vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian đầu. Nguyên nhân mâu thuẫn, do vợ chồng tính tình không hòa hợp nhau, thường xuyên cãi nhau, ngoài ra vợ chồng bà A còn có mâu thuẫn về kinh tế gia đình, vợ chồng không thống nhất được việc chi tiêu trong gia đình, thu nhập của mỗi người tự sử dụng riêng. Bà A và ông L2 không còn chung sống với nhau từ tháng 7/2012 cho đến nay. Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông L2 nhưng ông L2 không đến tòa án tham gia hòa giải theo thông báo của Tòa án. Tại phiên tòa, bà A vẫn giữ nguyên cầu yêu cầu ly hôn với ông L2. Hội đồng xét xử xét thấy cả bà A và ông L2 đều không có thiện chí hàn gắn lại tình cảm vợ chồng, cũng như duy trì đời sống hôn nhân. Qua đó, có đủ cơ sở xác định tình cảm vợ chồng giữa bà A và ông L2 không còn, đời sống chung vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà A đối với ông L2.

[3] Về con chung: trong thời giA chung sống, bà A và ông L2 có một người con chung tên Huỳnh Mai Nhựt Khanh, sinh ngày 12/7/2011. Trong thời giA vợ chồng sống ly thân, cháu Khanh do bà A trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, mặt khác cháu Khanh cũng có nguyện vọng được sống với mẹ trong trường hợp cha mẹ ly hôn. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà A, giao cháu Khanh cho bà A nuôi dưỡng. Bà A không yêu cầu ông L2 cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: bà A trình bày bà và ông L2 không có tài sản chung, không có nợ chung. Ông L2 không có ý kiến phản hồi về vấn đề này nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bà A phải chịu án phí sơ thẩm ly hôn theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Áp dụng Khoản 1 Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Áp dụng Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Mai Ngọc A về việc yêu cầu ly hôn với ông Huỳnh Thanh L2.

Về hôn nhân: bà Mai Ngọc A được ly hôn với ông Huỳnh Thanh L2.

Về con chung: giao cho bà Mai Ngọc A nuôi dưỡng người con chung tên Huỳnh Mai Nhựt Khanh, sinh ngày 12/7/2011. Ông Huỳnh Thanh L2 không cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, cha mẹ có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Về án phí: bà Mai Ngọc A phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm ly hôn, chuyển 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí bà A đã nộp theo biên lai thu số 0009125 ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện C sang án phí.

Bản án sơ thẩm, đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 13/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về