Bản án 04/2021/DS-ST ngày 16/03/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

 BẢN ÁN 04/2021/DS-ST NGÀY 16/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Vào ngày 16 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 40/2020/TLST - DS ngày 27/11/2020 về “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2021/QĐXX - ST ngày 01/3/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tú O, sinh năm 1982. (có mặt) Địa chỉ cư trú: khối x, thị trấn D, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

- Bị đơn: Anh Thái C, sinh năm 1979 và chị Trần Thị T, sinh năm 1984. Đều có địa chỉ cư trú tại: Xóm x, xã H, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

(đều vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 02/10/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm; nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tú O trình bày:

Do chị O được biết anh Thái C và ông Nguyễn Bá P (bố đẻ chị O) có quan hệ thân thiết, Thái C gọi ông P là bố nuôi. Khi vợ chồng C.T cần thêm vốn mở rộng kinh doanh và đáo hạn ngân hàng thì ông P đã cho vợ chồng anh C vay tổng số tiền 735.000.000 đồng. Sau đó C cần thêm tiền để đáo hạn ngân hàng thì nhờ bố chị vay thêm. Ông P đã gọi điện thoại cho chị là cho anh C vay tạm số tiền là 700.000.000 đồng để anh C làm thủ tục đáo hạn ngân hàng; do có ông P bảo đảm nên chị đồng ý cho anh C vay số tiền trên mà không suy nghĩ gì hơn, việc vay nợ giữa tôi và anh C đã lập bằng văn bản đề là Giấy vay tiền – lập ngày 15/11/2018, thời hạn vay 10 ngày, lãi suất theo thỏa thuận, việc vay nợ có cả vợ anh C là chị Trần Thị T biết và xác nhận dưới Giấy vay tiền, có xác nhận của Ủy ban nhân dân thị trấn D.

Tuy nhiên từ khi anh C nhận tiền thì chưa thanh toán cho chị O khoản tiền gốc, lãi nào. Cho đến khoảng đầu tháng 01 năm 2019 thì chị được ông P thông báo vợ chồng C.T đã vỡ nợ và cũng có liên lạc cho ông P về lấy tài sản để trừ nợ, nhưng khi chị và ông P đã chuẩn bị đủ tiền thì không liên lạc được với anh C chị T nữa. Sau nhiều lần liên lạc thì anh C chị T đã rời khỏi địa phương, không bắt máy cuộc gọi của chị cũng như của ông P.

Tại phiên tòa, chị O giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh T.C và chị Trần Thị T phải trả cho chị số tiền gốc 700.000.000 đồng theo Giấy vay tiền đã lập vào ngày 15/11/2018 mà chị đã giao nộp cho Tòa án. Chị O không yêu cầu lãi suất.

Đề nghị Tòa án tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản nơi gửi giữ để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của bị đơn đối với chị Nguyễn Thị Tú O. Đồng thời đề nghị Tòa án hủy bỏ việc thực hiện biện pháp bảo đảm để chị O được nhận lại số tiền 20.000.000 đồng đang tạm khóa tại Ngân hàng TMCP XNK Việt Nam, phòng Giao dịch Diễn Châu, chi nhánh Nghệ An.

Quá trình giải quyết vụ án, căn cứ kết quả xác minh của Ủy ban nhân dân xã D.H ngày 24/11/2020, xác định: anh T.C, sinh năm 1979 và chị Trần Thị T, sinh năm 1984 đều có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xóm x (nay là xóm P.L) xã H, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; tuy nhiên hiện nay vợ chồng anh C chị T cùng với các con đã rời khỏi địa phương đi đâu làm gì không rõ; không làm thủ tục cắt chuyển hộ khẩu thường trú, không thông báo địa chỉ ở mới. Trên cơ sở đó Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng thông qua thủ tục Niêm yết công khai, gồm: Thông báo Thụ lý vụ án ngày 27/11/2020, các Thông báo phiên hòa giải và Giấy triệu tập; Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời – Phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ; Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; và các Quyết định đưa vụ án ra xét xử (lần 1, lần 2) theo đúng trình tự thủ tục pháp luật đối với bị đơn anh Thái C và chị Trần Thị T.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu đã thụ lý và giải quyết đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, đúng tư cách đương sự; thủ tục thu thập chứng cứ, cấp – tống đạt các văn bản tố tụng đúng quy định pháp luật; tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận chứng cứ và hòa giải; thực hiện thời hạn chuẩn bị xét xử theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Hội đồng xét xử tiến hành thủ tục bắt đầu phiên tòa, thực hiện nội dung, phương thức, thứ tự tranh tụng đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với các bị đơn đã rời khỏi địa phương, không làm thủ tục cắt chuyển hộ khẩu, không thông báo địa chỉ cư trú mới thể hiện các bị đơn cố tình giấu địa chỉ, cố tình trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với nguyên đơn, không chấp hành theo yêu cầu làm việc gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng trình tự thủ tục tố tụng, nên HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng pháp luật.

- Về nội dung: căn cứ nội dung trình bày của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xét thấy yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả nợ là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 463, 465, 466, 468, 470 của Bộ luật dân sự 2015 chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tú O.

Tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tú O yêu cầu tiếp tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Quyết định số 05/2020/QĐ-BPKCTT, ngày 07/12/2020 và hủy bỏ việc Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm để nguyên đơn nhận lại số tiền 20.000.000 đồng là phù hợp với quy định của pháp luật, đảm bảo cho việc thi hành án nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ nên bị đơn anh Thái C và chị Trần Thị T phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1].Về tố tụng:

[1.1]. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo các Giấy vay tiền đã lập vào ngày 15/11/2018 thuộc „tranh chấp về giao dịch dân sự, Hợp đồng dân sự“ được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Các bị đơn đều có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xóm 5 (cũ) – nay là xóm Phượng Lịch x, xã H, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2]. Về việc vắng mặt của bị đơn: anh Thái C và chị Trần Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án căn cứ vào các Điều 207; Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP, ngày 05/5/2017 để tiến hành xét xử vắng mặt các bị đơn.

[2]. Về nội dung vụ án:

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ, lời trình bày của chị Nguyễn Thị Tú O thì bị đơn là anh Thái C và chị Trần Thị T đã trực tiếp vay của chị O tổng số tiền là 700.000.000 đồng vào ngày 15/11/2018, giao dịch được xác lập thành văn bản đề là “Giấy vay tiền“, dưới góc phải Giấy vay tiền có chữ ký người vay: Thái C, Trần Thị T; người cho vay: Nguyễn Thị Tú O; có xác nhận của Ủy ban nhân dân thị trấn D; theo đó hai bên đều có thỏa thuận về số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay và trách nhiệm trả nợ (bút lục 49).

Quá trình giải quyết và tại phiên tòa chị O khẳng định xuất phát từ mối quan hệ thân thiết giữa anh C và ông P (bố của chị O), hơn nữa lại có sự tác động của ông P nên chị T mới cho anh C vay số tiền lớn như vậy. Nhưng từ sau khi nhận số tiền vay thì anh C chị T chưa trả được khoản tiền gốc, lãi nào; qua tìm hiểu thì công việc kinh doanh của C, T gặp khó khăn, vỡ nợ nên không có khả năng thanh toán, chị O cũng đã liên lạc qua điện thoại nhưng anh C chị T không nghe máy. Như vậy, nội dung trình bày của chị Oanh là có cơ sở, giao dịch dân sự giữa nguyên đơn và bị đơn là hoàn toàn có thật. Do anh C và chị T không có lời khai hoặc cung cấp chứng cứ phản bác trong suốt quá trình giải quyết, nên cần áp dụng các Điều 117, Điều 463, 465, 466, 468 của Bộ luật dân sự 2015 để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nguyên đơn không yêu cầu lãi suất nên miễn xét.

[3]. Về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản nơi gửi giữ: Để đảm bảo cho việc trả nợ của bị đơn, căn cứ Đơn yêu cầu của Nguyên đơn, Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu đã Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Phong tỏa tài sản của anh C chị T đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Diễn Châu là khoản tiền mặt 70.852.156 đồng (bảy mươi triệu tám trăm năm mươi hai nghìn một trăm năm sáu đồng) thuộc quyền sở hữu của ông Thái C và bà Trần Thị T theo Công văn phúc đáp số 442/CCTHADS, ngày 07/12/2020 về việc “Cung cấp thông tin” của Chi cục thi hành án dân sự huyện Diễn Châu. Xét thấy đề nghị của Nguyên đơn về việc tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng khẩn cấp tạm thời số 05/2020/QĐ-BPKCTT, ngày 07/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu là phù hợp với quy định tại Điều 125 của Bộ luật tố tụng dân sự nên có cơ sở chấp nhận. Do yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của nguyên đơn theo đúng quy định của pháp luật nên cần giải tỏa Tài khoản phong tỏa theo Quyết định buộc thực hiện biện pháp đảm bảo số 04/2020/QĐ-BPĐB, ngày 07/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

[4]. Về án phí: Do yêu cầu của Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tú O được chấp nhận nên bị đơn anh Thái C và chị Trần Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 111; Điều 112; Điều 125; Điều 136; Điều 227; Điều 228; Điều 235; và Điều 271 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Điều 116; Điều 117; Điều 463; Điều 466; Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015;

- Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP, ngày 24/9/2020, về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

- Luật thi hành án Dân sự.

Tuyên xử:

1. Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tú O; Buộc bị đơn anh Thái C và chị Trần Thị T phải trả cho chị Nguyễn Thị Tú O số tiền nợ vay là 700.000.000 đồng (bảy trăm triệu đồng).

Kể từ ngày chị Nguyễn Thị Tú O có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh Thái C và chị Trần Thị T chưa thi hành hoặc thi hành không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ nếu trên thì hàng tháng còn phải trả trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357 của bộ luật dân sự năm 2015. Mức lãi suất được xác định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.

2. Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 05/2020/QĐ-BPKCTT, ngày 07/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An để đảm bảo cho việc thi hành án.

3. Hủy bỏ Quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm, số 04/2020/QĐ- BPĐB, ngày 07/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

Chị Nguyễn Thị Tú O được nhận lại số tiền đảm bảo là 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) đã gửi vào tài khoản phong tỏa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) – chi nhánh Nghệ An, phòng giao dịch Diễn Châu, theo Quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm, số 04/2020/QĐ-BPBĐ, ngày 07/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

4. Về án phí: Anh Thái C và chị Trần Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là: 32.000.000đ (ba mươi hai triệu đồng). Hoàn trả cho chị Nguyễn Thị Tú O số tiền tạm ứng án phí 16.000.000VND (mười sáu triệu đồng) đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ an theo biên lai thu tiền số 0001809 ngày 26/11/2020.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn Anh Thái C và chị Trần Thị T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 04/2021/DS-ST ngày 16/03/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:04/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về