Bản án 04/2021/DS-ST ngày 06/07/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 04/2021/DS-ST NGÀY 06/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 7 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 05/2021/TLST-DS ngày 01/4/2021 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2021/QĐXX-ST ngày 02/6/2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 08/2021/QĐ- HPT ngày 18/6/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á Trụ sở: 130 Phan Đăng Lưu, Phường 3, quận Phú Nhuận, TP Hồ chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Võ Minh Tuấn – Chức vụ: Chủ tịch hội đồng quản trị, Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á Người đại diện theo ủy quyền: Bà Vũ Thị Y - Cán bộ xử lý nợ Ngân hàng TMCP Đông Á chi nhánh Thái Bình, phòng giao dịch Đông Hưng

Bị đơn: Bà Đặng Thị Ng, sinh năm 1984 Trú tại: Thôn H N, xã L G, huyện Đ H, tỉnhT B

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1983 Trú tại: Thôn H N, xã L G, huyện Đ H, tỉnhT B (Các đương sự đều vắng mặt )

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong quá trình tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á trình bày: Ngày 20/9/2018 Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á chi nhánh Thái Bình, phòng giao dịch Đông Hưng (sau đây gọi tắt là ngân hàng) đã cho bà Đặng Thị Ng vay số tiền 20.000.000 đồng với lãi suất 8,5%%/năm (lãi suất tính trên dư nợ ban đầu). Lãi quá hạn mức 12,7%/năm (bằng 1,5 lần mức lãi cho vay trong hạn). Thời hạn vay 18 tháng với mục đích kinh doanh. Hình thức thanh toán trả gốc và lãi hàng tháng theo bảng dự tính RULE78. Chia làm 18 kỳ mỗi kỳ 01 tháng kể từ 20/9/2018. Việc vay vốn dưới hình thức tín chấp thông qua hội phụ nữ xã L G và ông Nguyễn Ngọc T là chồng bà Ng ký bảo lãnh.

Sau khi bà Ng làm thủ tục vay vốn, ký giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ. Ngân hàng đã thực hiện cho bà Ng nhận nợ theo hình thức báo có vào số tài khoản 0110080665 của bà Đặng Thị Ng mở tại Ngân hàng, ngày 20/9/2018 số tiền 20.000.000 đồng. Bà Ng đã rút số tiền 20.000.000 đồng tại tài khoản của mình cùng ngày tại Ngân hàng. Sau khi vay vốn của Ngân hàng bà Ng đã thực hiện trả nợ cho Ngân hàng đầy đủ cho đến tháng 12/2019 thì dừng không trả cho Ngân hàng theo hợp đồng đã kí kết. Sau đó đến ngày 12/6/2020 bà Ng tiếp tục trả nợ cho Ngân hàng số tiền 1.000.000 đồng Ngân hàng trừ toàn bộ vào tiền gốc. như vậy đến ngày 12/6/2020 dư nợ gốc là 2560.526 đồng và lãi trong hạn là 89.474 đồng Từ tháng 12/2019 bà Ng đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng đã chuyển toàn bộ nợ gốc phải trả trong hạn sang nợ quá hạn. Do vậy tính đến ngày hôm nay 06/7/2021 thì số tiền lãi quá hạn đã tăng lên 504, 458 đồng. Do vậy nay Ngân hàng yêu cầu bà Ng phải trả nợ cho Ngân hàng Đông Á, Chi nhánh Thái Bình, Phòng giao dịch Đông Hưng tổng số tiền là 3.154.458 đồng. Ngân hàng yêu cầu bà Ng phải trả ngay cho Ngân hàng. Bà Ng là người ký kết vay vốn và nhận tiền của Ngân hàng Đông Á, ông T là người bảo lãnh, nên bà Ng, ông T phải có trách nhiệm trả nợ Ngân hàng. Người đại diện cho Nguyên đơn có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa.

Bị đơn bà Đặng Thị Ng vắng mặt trong quá trình tố tụng không có ý kiến trình bày.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 02/6/2021 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc T trình bày:

Gia đình ông T, bà Ng đã nhận được thông báo thụ lý vụ số 05/2021 ngày 01/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng về việc Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á kiện đòi nợ vợ chồng ông T, bà Ng số tiền vợ chồng ông T vay của Ngân hàng chưa trả hết gồm gốc là 2.560.526 đồng, lãi trong hạn là 89.474 đồng và lãi quá hạn tính đến ngày 02/4/2021 là 416.915 đồng. Vợ chồng ông T, bà Ng đã nhận được giấy triệu tập của Tòa án nhưng do bà Ng vợ ông T đi làm ở Công ty không thể đến trình bày theo giấy triệu tập của tòa án nên ông T đến trình bày thay cho bà Ng.

Ông T thừa nhận vợ chồng ông có vay của Ngân hàng Đông Á số tiền 20.000.000 đồng theo hình thức tín chấp thông qua hội phụ nữ xã L Gi. Vợ ông T là bà Ng trực tiếp làm thủ tục vay với Ngân hàng Đông Á, ông T là người ký bảo lãnh đối với khoản vay trên. Mục đích vợ chồng ông vay tiền để kinh doanh, thời hạn vay 18 tháng lãi suất 8,5%/năm. Ngày cho vay là ngày 20/9/2018. Ngày đến hạn là ngày 20/3/2020. Vay trả góp, mỗi tháng trả một kỳ với số tiền 1.260.000đồng. Kỳ cuối phải trả 1.230.000 đồng. Sau khi vay vợ chồng ông T vẫn thực hiện nghĩa vụ với Ngân hàng theo hợp đồng nhưng ông T không nhớ cụ thể việc trả nợ thế nào, nhưng đến tháng 7/2020 thì một cán bộ tín dụng của Ngân hàng xuống nhà ông T đòi nợ nhưng vợ chồng ông T, bà Ng không có ở nhà, những lần trả nợ mẹ đẻ ông là Lương Thị Nh thường trả nợ thay vợ chồng nhưng hôm đó mẹ ông T không có tiền trả thay, sau đó mẹ ông có nhận được một tin nhắn đe dọa bà với nội dung: “ Riêng bà tôi cho người phát một xuống, bà muốn tử tế tôi tử tế nhé, còn bà giở cái giọng ấy tối thứ bảy tôi cho người xuống nhà bà làm việc” nên gia đình ông T bức xúc, từ đó không trả nợ cho Ngân hàng nữa . Về các tài liệu Ngân hàng cung cấp cho Tòa án gồm đề nghị vay vốn kiêm phương án trả nợ, danh sách cho vay giải ngân qua tài khoản thẻ, Bảng dự tính thu theo ruler 78 có chữ kí Ng, Đặng Thị Ng là chữ kí của bà Ng vợ ông T, tại phần người bảo lãnh trong đề nghị vay vốn kiêm phương án sở dụng vỗn có chữ ký T, Nguyễn Ngọc T là chữ kí của ông T. Nay Ngân hàng đòi vợ chồng ông T số nợ tính đến ngày 02/6/2021 là 3.122.233 đồng, ông T không có ý kiến gì, nhưng vợ chồng ông T chưa có tiền trả ngay cho Ngân hàng, vợ chồng ông T sẽ thu xếp để trả nợ cho Ngân hàng. Do công việc bận mải nên vợ chồng ông T không đến Tòa trình bày được, ông T đề nghị Tòa án không phải hòa giải và cứ xét xử vắng mặt vợ chồng ông.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử là với quy định của pháp luật việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đối với Ngân hàng đã tuân thủ quy định của pháp luật đối với ông T, bà Ng chưa tuân thủ quy định của pháp luật.

Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, sau khi đương sự trình bày ý kiến, Tòa án xét thấy:

[1] Về tố tụng:

Bà Đặng Thị Ng, ông Nguyễn Ngọc T, vắng mặt lần thứ hai mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Đại diện theo ủy quyền Ngân hàng thương maị cổ phần Đông Á vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng các đương sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét yêu cầu của nguyên đơn: Về việc yêu cầu bị đơn phải trả toàn bộ số tiền gốc là 2.560.526 đồng, lãi trong hạn là 89.474 đồng. Lãi quá hạn tính từ 12/2019 đến ngày xét xử 06/7/2021 là 564 ngày số tiền lãi là 504.458 đồng, đồng thời yêu cầu bị đơn tiếp tục trả lãi theo mức lãi nợ quá hạn gấp 1,5 lần mức lãi đã thỏa thuận theo hợp đồng cho đến khi hoàn thành việc trả nợ. Hội đồng xét xử thấy rằng:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án gồm: Văn bản trình bày của bà Vũ Thị Y – là người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á, Biên bản ghi lời khai của ông Nguyễn Ngọc T đều thừa nhận ngày 20/9/2018 bà Ng có ký hợp đồng vay vốn tại Ngân hàng Đông Á, chi nhánh Thái Bình, phòng giao dịch huyện Đông Hưng theo Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 13/9/2018 với số tiền 20.000.000đồng như đại diện Ngân hàng Đông Á đã trình bày. Ông Nguyễn Ngọc T là người ký bảo lãnh nghĩa vụ trả nợ hàng kỳ cho Ngân hàng thay cho bà Đặng Thị Ng khoản vay trên.

Xét việc thỏa thuận của các đương sự khi giao kết hợp đồng thể hiện trong các văn bản gồm Đề nghị vay vốn, kiêm phương án sử dụng vốn (BL 18); Danh sách cho vay trả góp giải ngân qua tài khoản thẻ ( BL 17); Bảng dự tính RULE78 ( BL 15) giấy đề nghị chi vay góp qua tài khoản thẻ ( BL 16) là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, không trái pháp luật và đạo đức xã hội, khi thỏa thuận các bên đương sự đều là những người đủ năng lực trách nhiệm dân sự. Theo thỏa thuận hàng tháng bà Ng phải trả cho Ngân hàng cả gốc, và lãi là 1.260.000 đồng trong 17 tháng, riêng tháng thứ 18 phải trả số tiền 1.130.000 đồng. Tuy nhiên sau khi vay tiền bà Ng đã thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho đến tháng 12/2019 thì bà Ng đã dừng việc trả nợ không thực hiện nghĩa vụ đúng như hợp đồng đã kí kết với Ngân hàng là vi phạm quy định các bên đã ký kết trong phần III Đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn mà các bên đã giao kết ngày 13/9/2018.

Bà Ng giao kết hợp đồng vay Ngân hàng Đông Á số tiền 20.000.000 đồng, bà đã trả đượcsố tiền gốc là 17439.000 đồng. Lãi đã trả đến hết tháng 12/2019 còn nợ lãi trong hạn là 89.474 đồng.

Như vậy thời gian chậm trả khoản nợ của bà Ng tính từ tháng 12/2019 – 06/7/2021 là 564 ngày.

Các bên cam kết mức lãi trong hạn là 8,5%/năm, lãi quá hạn là 1,5 lần mức lãi trong hạn. Vì vậy lãi quá hạn được xác định là 12,75%/năm.

- Do vậy số tiền lãi quá hạn tính đến ngày xét xử 06/7/2021 bà Ng phải trả là 2.560.526 đồng x 12,75% x564 ngày = 504.458 đồng 365 Do vậy tính đến ngày 06/7/2021 bà Ng còn nợ Ngân hàng Đông Á số tiền gồm:

- Nợgốc còn lại là 2.560.526 đồng.

- Lãi trong hạn là 89.474 đồng.

- Lãi quá hạn là 504.458 đồng Do vậy Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà Ng phải trả nợ gốc, và lãi tính đến ngày 06/7/2021 là 3.154.458 đồng và phải tiếp tục trả lãi cho Ngân hàng theo hợp đồng đã ký kết cho đến khi trả xong nợ là có căn cứ chấp nhận.

Do ông T là chồng bà Ng đã tự nguyện cam kết tại phần IV Đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn ngày 13/9/2018 giữa bà Ng và Ngân hàng bảo lãnh nghĩa vụ trả nợ thay cho bà Ng. Việc ông T bảo lãnh, nghĩa vụ trả nợ cho bà Ng không thuộc trường hợp phải đăng ký dao dịch bảo đảm theo Điều 3 Nghị định 83/2010/NĐ-CP do vậy việc bảo lãnh trên hoàn toàn hợp pháp bà Ng không trả được nợ cho Ngân hàng thì ông T phải là người có trách nhiệm trả nợ thay cho bà Ng theo đúng hợp đồng đã ký kết.

[3] Về án phí: Yêu cầu của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á được chấp nhận nên Ngân hàng không phải chịu án phí.

Bà Ng, phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều Về điều luật áp dụng: Điều 463, 466, 468 Bộ luật dân sự 2015; Điều 26, Điều 35, Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng

1. Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á.

2. Buộc bà Đặng Thị Ng, sinh năm 1984 địa chỉ:Thôn H N, xã L Gi, huyện Đ H, tỉnh T B phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á chi nhánh Thái Bình phòng giao dịch huyện Đông Hưng số tiền nợ gốc còn lại là 2.560.526 đồng, số tiền lãi là 593.932 đồng, tổng là 3.154.458 đồng(Ba triệu một trăm năm mươi tư ngàn bốn trăm năm mươi tám đồng) Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, bà Ng còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng.

Trường hợp bà Ng không trả được nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á thì người bảo lãnh là ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1983(Là chồng của bà Ng) ở địa chỉ: Thôn H N xã L Gi, huyện Đ H, tỉnh T B phải cótrách nhiệm trả nợ thay cho bà Ng.

3. Về án phí: Ngân hàng Đ Á không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả Ngân hàng Đ Á số tiền 300.00 đồng (Ba trăm năm ngàn đồng) tạm ứng án phí mà Ngân hàng Đ Á đã nộp tại biên lai thu số 0002720 ngày 01/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hưng.

Bà Đặng Thị Ng phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo:

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

354
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2021/DS-ST ngày 06/07/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:04/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về