Bản án 04/2020/KDTM-ST ngày 28/07/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 04/2020/KDTM-ST NGÀY 28/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 28 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện G, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 02/2020/TLST-KDTM ngày 12 tháng 3 năm 2020, về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2020/QĐXXST-KDTM ngày 02 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng D; địa chỉ: 35 V, quận H, thành phố Hà Nội;

- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Trần Thị Hồng Phước, chức vụ: Phó Giám đốc Phòng giao dịch Bắc Gia Lai thuộc Ngân hàng D, Chi nhánh Gia Lai; địa chỉ: 112 L, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai (Theo Quyết định ủy quyền tham gia tố tụng số 187/QĐ-BIDV.GL ngày 13/02/2020 của Ngân hàng D, Chi nhánh Gia Lai); Có mặt.

- Bị đơn: Bà Phan Thị T; địa chỉ: Thôn T, xã S, huyện G, tỉnh Gia Lai; Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phùng Văn P; địa chỉ: Thôn T, xã S, huyện G, tỉnh Gia Lai; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Ngân hàng D thông qua Phòng giao dịch Bắc Gia Lai (Ngân hàng) cho bà Phan Thị T vay theo Hợp đồng tín dụng số 01/2019/5854200/HĐTD ngày 06/3/2019 số tiền 200.000.000 đồng, thời hạn vay là 11 tháng, giải ngân ngày 06/3/2019, đáo hạn ngày 06/02/2020, mục đích vay để bổ sung vốn kinh doanh mua bán hàng nông sản, lãi suất cho vay trong hạn: 9,5%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn;

Hợp đồng tín dụng số 02/2019/5854200/HĐTD ngày 26/6/2019 số tiền 1.030.000.000 đồng, thời hạn vay là 11 tháng, giải ngân ngày 26/6/2019, đáo hạn ngày 26/5/2020, mục đích vay để bổ sung vốn kinh doanh mua bán hàng nông sản, lãi suất cho vay ban đầu tính từ ngày vay đến ngày 30/6/2019 là 10,6%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn.

Để đảm bảo cho các khoản vay trên, bà Phan Thị T và ông Phùng Văn P là chồng của bà Phan Thị T đã thế chấp bằng Hợp đồng thế chấp bất động sản số 01/2018/5854200/HĐBĐ ngày 03/7/2018, tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số 56, tờ bản đồ số 153, diện tích 557,1m2, tại thôn T, xã S, huyện G, tỉnh Gia Lai. Thửa đất đã được Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CN 214876, ngày 29/6/2018, mang tên Phùng Văn P và Phan Thị T.

Từ thời điểm vay đến ngày 25/6/2019, bà Phan Thị T mới trả được số tiền lãi đối với Hợp đồng tín dụng số 01/2019/5854200/HĐTD số tiền là 5.830.137 đồng; Đối với Hợp đồng tín dụng số 02/2019/5854200/HĐTD bà Phan Thị T chưa trả tiền lãi.

Do bà Phan Thị T vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà Phan Thị T phải trả tổng số tiền còn nợ gốc và nợ lãi là 1.387.663.507 đồng theo các Hợp đồng tín dụng số 01/2019/5854200/HĐTD ngày 06/3/2019 gồm tiền nợ gốc:

200.000.000 đồng, tiền nợ lãi tính đến ngày 28/7/2020 gồm lãi trong hạn là 11.712.329 đồng, lãi quá hạn là 13.586.301 đồng, tổng cộng là 255.298.630 đồng; Tiền nợ theo Hợp đồng tín dụng số 02/2019/5854200/HĐTD ngày 26/6/2019 gồm tiền nợ gốc là 1.030.000.000 đồng, tiền nợ lãi tính đến ngày 28/7/2020 gồm lãi trong hạn là 103.107.233 đồng, lãi quá hạn là 29.257.644 đồng, tổng cộng là 1.162.364.877 đồng.

Trường hợp bà Phan Thị T không thanh toán toàn bộ số tiền nợ trên thì Ngân hàng được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý đối với các tài sản thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng.

Trường hợp xử lý bán tài sản thế chấp sau khi trả nợ vẫn chưa trả hết toàn bộ nợ gốc và lãi cho Ngân hàng thì bà Phan Thị T vẫn phải tiếp tục có nghĩa vụ trả nợ đối với phần nợ gốc và lãi còn thiếu.

2. Bị đơn là bà Nguyễn Thị T trình bày:

Bà Phan Thị T đồng ý với trình bày của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn. Bà Phan Thị T công nhận có vay tiền của Ngân hàng Ngân hàng D thông qua Chi nhánh Bắc Gia Lai theo 02 Hợp đồng tín dụng như phía nguyên đơn trình bày là đúng. Để đảm bảo cho các khoản vay trên, bà Phan Thị T và ông Phùng Văn P là chồng của bà Phan Thị T đã thế bằng chấp Hợp đồng thế chấp bất động sản số 01/2018/5854200/HĐBĐ ngày 03/7/2018, tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số 56, tờ bản đồ số 153, diện tích 557,1m2, tại thôn T, xã S, huyện G, tỉnh Gia Lai. Tính đến ngày 28/7/2020, bà Phan Thị T còn nợ Ngân hàng tổng số tiền nợ gốc và nợ lãi là 1.387.663.507 đồng theo các Hợp đồng tín dụng số 01/2019/5854200/HĐTD và Hợp đồng tín dụng số 02/2019/5854200/HĐTD. Bà Phan Thị T đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng 3. Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng để triệu tập người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phùng Văn P đến làm việc liên quan đến vụ án nhưng ông Phùng Văn P cố tình trốn tránh và không có mặt theo Giấy triệu tập của Tòa án. Do vậy, hồ sơ không có lời khai của ông Phùng Văn P.

4. Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập các tài liệu, chứng cứ: Bản gốc Đơn khởi kiện; Bản gốc Quyết định ủy quyền tham gia tố tụng số 187/QĐ-BIDV.GL ngày 13/02/2020; bản sao Quyết định ủy quyền tham gia tố tụng, phá sản và thi hành án dân sự số 804/QĐ-BIDV ngày 22/8/2019; Bản sao Đơn yêu cầu đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; bản sao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CN 214876, ngày 29/6/2018, mang tên Phùng Văn P và Phan Thị T; bản photo Giấy chứng minh nhân dân của ông Phùng Văn P và bà Phan Thị T; bản photo Sổ hộ khẩu của ông Phùng Văn P và bà Phan Thị T; bản photo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ gia đình số 39F8001397; bản sao Hợp đồng thế chấp bất động sản số 01/2018/5854200/HĐBĐ ngày 03/7/2018; bản photo Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sản xuất kinh doanh, đầu tư khác ngày 26/6/2019; bản photo Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sản xuất kinh doanh, đầu tư khác ngày 06/3/2019; bản sao Hợp đồng tín dụng số 01/2019/5854200/HĐTD ngày 06/3/2019; bản sao Hợp đồng tín dụng số 02/2019/5854200/HĐTD ngày 26/6/2019; bản gốc Bảng kê tính lãi ngày 11/02/2020; bản gốc Bản tự khai; bảng kê tính lãi tính đến ngày 25/5/2020; bản gốc đơn yêu cầu Tòa án hỗ trợ việc gửi tài liệu, chứng cứ; bản gốc đơn yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa giải; Bản gốc Biên bản xác minh; bản gốc biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 25/5/2020.

5. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G khẳng định trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phùng Văn P đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên toà nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn phù hợp với quy định của pháp luật, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại các Điều 30, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem xét giải quyết. Hợp đồng giao kết giữa hai bên chủ thể trong đó có một bên chủ thể Ngân hàng là tổ chức tín dụng có đăng ký kinh doanh và một bên là bị đơn có đăng ký kinh doanh nên được xác định là tranh chấp về kinh doanh thương mại; Trong quá trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình trốn tránh, không có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Hội đồng xét xử thấy rằng các Hợp đồng tín dụng số 01/2019/5854200/HĐTD ngày 06/3/2019 và Hợp đồng tín dụng số 02/2019/5854200/HĐTD ngày 26/6/2019 giữa nguyên đơn với bị đơn được giao kết hợp pháp nên có hiệu lực, các bên trong hợp đồng có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã cam kết. Bị đơn vi phạm nghĩa vụ của bên vay theo hợp đồng đã được giao kết nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả nợ là có căn cứ theo quy định tại Điều 463, Điều 466 của Bộ Luật Dân sự. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng D. Buộc bà Phan Thị T phải trả cho Ngân hàng D tổng số tiền còn nợ gốc và nợ lãi là 1.387.663.507 đồng theo các Hợp đồng tín dụng số 01/2019/5854200/HĐTD ngày 06/3/2019 gồm tiền nợ gốc: 200.000.000 đồng, tiền nợ lãi tính đến ngày 28/7/2020 gồm lãi trong hạn là 11.712.329 đồng, lãi quá hạn là 13.586.301 đồng, tổng cộng là 255.298.630 đồng; Tiền nợ theo Hợp đồng tín dụng số 02/2019/5854200/HĐTD ngày 26/6/2019 gồm tiền nợ gốc là 1.030.000.000 đồng, tiền nợ lãi tính đến ngày 28/7/2020 gồm lãi trong hạn là 103.107.233 đồng, lãi quá hạn là 29.257.644 đồng, tổng cộng là 1.162.364.877 đồng.

[3] Về yêu cầu xử lý tài sản thế chấp: Hội đồng xét xử thấy rằng giữa Ngân hàng với bị đơn bà Phan Thị T có giao kết Hợp đồng thế chấp bất động sản số 01/2018/5854200/HĐBĐ ngày 03/7/2018. Tài sản thế chấp gồm: Quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số 56, tờ bản đồ số 153, diện tích 557,1m2, tại thôn T, xã S, huyện G, tỉnh Gia Lai; được Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CN 214876, ngày 29/6/2018, mang tên Phùng Văn P và Phan Thị T. Hợp đồng nói trên có công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật nên có hiệu lực và các bên buộc phải thực hiện. Qua kết quả xem xét và thẩm định tại chỗ ngày 25/5/2020 thấy rằng, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất không có tranh chấp. Vì vậy căn cứ vào Điều 299 của Bộ luật Dân sự, Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng. Trường hợp xử lý bán tài sản thế chấp sau khi trả nợ vẫn chưa trả hết toàn bộ nợ gốc và lãi cho Ngân hàng thì bà Phan Thị T vẫn phải tiếp tục có nghĩa vụ trả nợ đối với phần nợ gốc và lãi còn thiếu như đã thỏa thuận trong các Hợp đồng tín dụng.

[4] Về chi phí xem xét và thẩm định tại chỗ: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, bà Phan Thị T là người phải chịu nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng nên căn cứ vào Điều 157, 158 của Bộ luật Tố tụng Dân sự buộc bà Phan Thị T phải hoàn lại cho Ngân hàng D toàn bộ số tiền tạm ứng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 4.000.000 đồng.

[4] Về án phí: Toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; Bị đơn bà Phan Thị T phải chịu tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm có giá ngạch tương ứng với phần nghĩa vụ trả nợ là 53.629.905 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Điều 144, Điều 147, Điều 157, Điều 158, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 299, Điều 307, Điều 463, Điều 466 của Bộ luật Dân sự; Điều 91, Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng.

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án và Danh mục án phí, lệ phí tòa án Ban hành kèm theo Nghị quyết.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng D.

2. Buộc bà Phan Thị T phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng D tổng số tiền nợ tính đến ngày 28/7/2020 là 1.387.663.507 đồng (Một tỷ ba trăm tám mươi bảy triệu sáu trăm sáu mươi ba nghìn năm trăm không bảy đồng). Trong đó tiền nợ theo Hợp đồng tín dụng số 01/2019/5854200/HĐTD ngày 06/3/2019 gồm tiền nợ gốc là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng), tiền nợ lãi trong hạn là 11.712.329 đồng (Mười một triệu bảy trăm mười hai nghìn ba trăm hai mươi chín đồng), tiền nợ lãi quá hạn là 13.586.301 đồng (Mười ba triệu năm trăm tám mươi sáu nghìn ba trăm không một đồng; Theo Hợp đồng tín dụng số 02/2019/5854200/HĐTD ngày 26/6/2019 gồm tiền nợ gốc là 1.030.000.000 đồng (Một tỷ không trăm ba mươi triệu đồng), tiền nợ lãi trong hạn là 103.107.233 đồng (Một trăm không ba triệu một trăm không bảy nghìn hai trăm ba mươi ba đồng), tiền nợ lãi quá hạn là 29.257.644 đồng (Hai mươi chín triệu hai trăm năm mươi bảy nghìn sáu trăm bốn mươi bốn đồng).

3. Trong trường hợp bà Phan Thị T không trả đủ số tiền nợ cho Ngân hàng D thì Ngân hàng D có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số 56, tờ bản đồ số 153, diện tích 557,1m2, tại thôn T, xã S, huyện G, tỉnh Gia Lai; được Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CN 214876, ngày 29/6/2018, mang tên Phùng Văn P và Phan Thị T theo Hợp đồng thế chấp bất động sản số 01/2018/5854200/HĐBĐ ngày 03/7/2018 được ký giữa Ngân hàng D với bà Phan Thị T và ông Phùng Văn P; Trường hợp xử lý bán tài sản thế chấp sau khi trả nợ vẫn chưa trả hết toàn bộ nợ gốc và lãi cho Ngân hàng D thì bà Phan Thị T vẫn phải tiếp tục có nghĩa vụ trả nợ đối với phần nợ gốc và lãi còn thiếu.

4. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, bà Phan Thị T còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, tương ứng với phần nghĩa vụ của mình theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

5. Buộc bà Phan Thị T phải trả lại cho Ngân hàng D toàn bộ số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng).

6. Về án phí: Buộc bà Phan Thị T phải chịu tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm có giá ngạch là 53.629.905 đồng (Năm mươi ba triệu sáu trăm hai mươi chín nghìn chín trăm không năm đồng); Hoàn trả lại cho Ngân hàng D số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 25.556.425 đồng (Hai mươi lăm triệu năm trăm năm mươi sáu nghìn bốn trăm hai mươi lăm đồng) theo Biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí tòa án số 0005940 ngày 11/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Gia Lai.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

8. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử Pc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên toà thì có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2020/KDTM-ST ngày 28/07/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:04/2020/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ia Grai - Gia Lai
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 28/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về