Bản án 04/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Q, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 04/2020/HS-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 02/2020/TLST-HS, ngày 18-3-2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2020/QĐXXST-HS, ngày 15-4-2020 đối với bị cáo:

Họ và tên bị cáo: Nguyễn Diên V, sinh ngày 19 tháng 3 năm 2000, tại huyện Q, tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: thôn E, xã R, huyện Q, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: không nghề; trình độ văn hóa 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Diên Đ và bà Nguyễn Thị Q1; vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 15-9-2019 Nguyễn Duyên V1, Nguyễn Diên V cùng thực hiện 01 vụ trộm cắp 06 bao lúa ở thôn U, xã Y, huyện Q. Ngày 05-10-2019 Công an huyện Q đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 165, 166 đối với Nguyễn Duyên V1 và Nguyễn Diên V về hành vi trộm cắp tài sản. Nhưng đến ngày 09-10- 2019 Nguyễn Duyên V1 và Nguyễn Diên V mới nhận được quyết định xử phạt hành chính của Công an huyện Q. Do đó, tại thời điểm thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 06-10-2019 bị cáo V1 và V chưa bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản.

Bị cáo Nguyễn Diên V đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 05/01/2020 cho đến nay. Có mặt tại phi n tòa.

* Người bị hại:

- Phạm Thị N, sinh năm 1989. Vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

Trú tại: Xóm 10, thôn S, xã G, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi.

* Người làm chứng:

- Nguyễn Duyên V1, sinh ngày 10-11-1994. Có mặt

Trú tại: thôn E, xã R, huyện Q, tỉnh Quảng Ngãi.

- Ngô Tấn N1, sinh ngày 11-7-1991. Vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

Trú tại: thôn K, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Ngãi.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 06/10/2019, Nguyễn Duyên V1 và Nguyễn Diên V đi bộ trên các tuyến đường xã B, huyện Q, tỉnh Quảng Ngãi với mục đích tìm tài sản của người dân sơ hở để trộm cắp. Khi đến đoạn đường bê tông liên xóm thuộc thôn M, xã B, huyện Q thì Nguyễn Duyên V1 nhìn thấy trong sân nhà bà Phan Thị T có dựng 01 (một) xe mô tô mang biển số kiểm soát 76E1-545.77 hiệu BLADE màu đỏ đen, không có người trông coi, nên V1 đi vào sân nhà bà Phan Thị T để dắt trộm xe máy trên. Lúc này, Nguyễn Diên V đang đi trước V1 khoảng 15m, khi quay đầu lại thì nhìn thấy V1 rẽ vào nhà bà T. V biết rõ là V1 đi trộm cắp tài sản n n đứng lại b n đường, chờ và canh gác cho V1. Sau khi lấy trộm xe máy, V1 dắt xe ra đến vị trí V đang đứng. Trên xe có sẵn chìa khóa nên V1 nổ máy xe, rồi điều khiển xe chở Nguyễn Diên V đến Nghĩa địa C thuộc xã B, huyện Q, tỉnh Quảng Ngãi để cất giấu xe rồi đi bộ về nhà.

Khoảng 08 giờ ngày 07/10/2019, V thức dậy rủ V1 xuống C để kiểm tra xe mô tô trộm cắp được còn hay không nhưng V1 còn đang buồn ngủ nên không dậy. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, V1 thức dậy, V1 và V xuống C xem xe, nếu còn thì mang xe đi bán lấy tiền tiêu xài. Khi đến Nghĩa địa C, nhìn thấy xe mô tô 76E1 – 545.77 mà V1 và V cất giấu vẫn còn nên V1 điều khiển xe chở V đi l n xã X đến tiệm sửa xe của Ngô Tấn N1 (Sinh năm 11/07/1991, trú tại: thôn K, xã X, huyện Q). Đến nơi, do N1 không có nhà nên V1 sử dụng điện thoại gọi cho N1 về để bán xe thì N1 đồng ý. Khoảng 15 phút sau, N1 về đến nhà, sau khi xem xe mô tô biển kiểm soát 76E1 – 545.77, N1 hỏi V1: "Xe ở đâu mà bán, có giấy tờ không?", V1 trả lời: "Lấy xe của bà chị đem bán", N1 hỏi: "Bán bao nhiêu?", V1 trả lời: "Ba triệu". Lúc này, N1 đã biết nguồn gốc xe mô tô biển kiểm soát 76E1 – 545.77 là do V1 trộm cắp mà có nên N1 sợ, chưa đồng ý mua xe ngay mà tiếp tục xem lại xe. Nhìn thấy xe còn mới, giá bán lại rẻ nên N1 quyết định mua xe, trả giá với V1: "Hai triệu ba", tức là N1 đồng ý mua xe với giá 2.300.000 đồng. V1 nghe N1 trả giá thì đồng ý bán xe, nhận số tiền 2.300.000 đồng từ N1. Sau khi nhận tiền bán xe, V1 nhờ N1 gọi giúp xe taxi rồi cùng V về nhà. Về đến nhà, V1 đưa cho V số tiền 500.000 đồng và đưa cho chị Nguyễn Thị Diễm Q2 (Sinh năm 2002, trú tại thôn A, xã F, huyện Q), là bạn gái đang sống như vợ chồng với V, số tiền 60.000 đồng để mua nước uống.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 26/KL-HĐĐGTTHS ngày 08/10/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Q kết luận: 01 (một) xe máy biển số 76E1 – 545.77, nhãn hiệu Honda, số loại BLADE, màu sơn đỏ đen, có số máy JA36E0796825; số khung 3642KY031882, tình trạng xe đã qua sử dụng có giá trị 18.130.000 đồng (Mười tám triệu một trăm ba mươi nghìn đồng).

Quá trình giải quyết vụ án, Nguyễn Duyên V1 đã bị khởi tố, điều tra, truy tố và bị kết án về tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 01 Điều 173 Bộ luật Hình sự với mức án 01 năm tù, theo Bản án số 03/2020/HS-ST ngày 25/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Q; Ngô Tấn N1 đã bị khởi tố, điều tra, truy tố và bị kết án về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có quy định tại khoản 01 Điều 323 Bộ luật Hình sự, theo Bản án số 03/2020/HS-ST ngày 25/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Q. Đối với bị can Nguyễn Diên V, sau khi phạm tội đã bỏ đi khỏi địa phương, Cơ quan CSĐT Công an huyện Q đã ra Quyết định truy nã số 01/CSĐT(HS) ngày 03/12/2019 đối với bị can Nguyễn Diên V, Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự đối với bị can số 01/CSĐT(HS) ngày 05/12/2019 và Quyết định tách vụ án số 01/CSĐT(HS) ngày 05/12/2019; đến ngày 02/01/2020, bị can Nguyễn Diên V đầu thú nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Q đã ra Quyết định đình nã số 01/CSĐT(HS) ngày 03/01/2020 và Quyết định phục hồi điều tra vụ án hình sự đối với bị can số 01/CSĐT(HS) ngày 03/01/2020 để xử lý hình sự đối với bị can Nguyễn Diên V theo quy định pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKS-NH ngày 17-3-2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Quảng Ngãi đã truy tố bị cáo Nguyễn Diên V về tội "Trộm cắp tài sản" quy định tại khoản 01 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên thực hiện quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: bị cáo Nguyễn Diên V phạm tội "Trộm cắp tài sản" và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 32; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Diên V từ 6 đến 9 tháng tù, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 02-01-2020 đến ngày 05-01-2020.

Về dân sự: Đã giải quyết xong, nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong, nên không xem xét.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Diên V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án; căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố; điều tra viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 37 Bộ luật Tố tụng hình sự; kiểm sát viên thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 42 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng gì của điều tra viên, kiểm sát viên. Do đó, trình tự, thủ tục tố tụng trong vụ án là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Diên V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung vụ án. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở chứng cứ xác định bị cáo Nguyễn Diên V là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của bị cáo. Nhưng vì mục đích cần tiền tiêu xài cá nhân, nên vào khoảng 19 giờ ngày 6/10/2019 bị cáo Nguyễn Diên V đã canh gác, cảnh giới cho Nguyễn Duyên V1 lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt xe mô tô biển số 76E1-545.77 hiệu BLADE màu đỏ đen của chị Phạm Thị N, tại sân nhà bà Nguyễn Thị T1, trú tại thôn M, xã B, huyện Q, tỉnh Quảng Ngãi. Tại bản kết luận định giá tài sản số 26/KL-HĐĐGTTHS ngày 8-10-2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Q kết luận xe máy biển số 76E1-545.77 có giá trị là 18.130.000đ (Mười tám triệu một trăm ba mươi ngàn đồng). Hành vi của bị cáo, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Diên V phạm tội “Trộm cắp tài sản”; tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đây là vụ án đồng phạm mang tính giản đơn. Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Diên V thực hiện hành vi phạm tội với vai trò người giúp sức.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Diên V trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; sau khi bị phát hiện về hành vi phạm tội bị cáo V đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q, nên cần áp dụng điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[5] Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Nguyễn Diên V có nhân thân xấu, bản thân không có nghề nghiệp, hành vi của bị cáo ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian, nhằm răn đe giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Về dân sự: Chị Phạm Thị N đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với chiếc điện thoại di động mà Nguyễn Duyên V1 sử dụng để gọi cho Ngô Tấn N1 để bán xe, khi Nguyễn Duyên V1 bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q bắt tạm giam đã giao lại cho Nguyễn Diên V sử dụng. tuy nhiên, quá trình sử dụng điện thoại V đã vứt bỏ do bị hư hỏng, nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q không thể tạm giữ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với chiếc xe máy biển số 76E1-545.77 hiệu BLADE màu đỏ đen, số máy JA36E0796825, số khung 3642KY031882; 01 xe mô tô không gắn biển số, không tìm thấy số khung, số mày LG150FMG00457719 đã xử lý theo quy định của pháp luật tại Bản án số 03/2020/HS-ST ngày 25-02-2020 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Quảng Ngãi.

Đối với số tiền 2.300.000đ (Hai triệu ba trăm ngàn đồng) đã xử lý theo quy định của pháp luật tại Bản án số 03/2020/HS-ST ngày 25-02-2020 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Quảng Ngãi. Tại phiên tòa, Nguyễn Duyên V1 không yêu cầu bị cáo Nguyễn Diên V hoàn trả số tiền 500.000đ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Diên V phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[9] Đối với đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Q phù hợp với nhận định trên, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 173; điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 32; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Diên V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2- Xử phạt bị cáo Nguyễn Diên V 9 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 02-01-2020 đến ngày 05-01-2020.

3- Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Diên V phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về trộm cắp tài sản

Số hiệu:04/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Sơn - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về