Bản án 04/2020/HS-ST ngày 24/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KON PLÔNG, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 04/2020/HS-ST NGÀY 24/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kon Plông tỉnh Kon Tum xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2020/TLST – HS ngày 05 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 04/2020/QĐXXST – HS ngày 12 tháng 8 năm 2020 đối với:

Bị cáo: A N ( Tên gọi khác: A ...) sinh ngày 07/8/2002 tại huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn K, xã M, huyện K, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Xơ Đăng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam, con ông A D1 (đã chết) và bà Y D2.

Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26 tháng 5 năm 2020 đến ngày 01/6/2020, bị tạm giam từ ngày 01/6/2020 đến nay. (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Đặng Thị Kim Nguyệt - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Kon Tum. (có mặt).

- Bị hại:

+ Chị Nguyễn Thị V; sinh năm: 1976; địa chỉ: Tổ dân phố 3, thị trấn M, huyện K, tỉnh Kon Tum (có đơn xin xét xử vắng mặt)

+ Chị Y Th; sinh năm: 1982; địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện K, tỉnh Kon Tum (có đơn xin xét xử vắng mặt)

+ Anh A P sinh năm: 1990; địa chỉ: Thôn Đ, xã M, huyện K, tỉnh Kon Tum. (có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Y D2; sinh năm 1966; Nơi cư trú: Thôn K, xã M, huyện K, tỉnh Kon Tum. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 03/4/2020, A N một mình đi đến khu vực tổ dân phố 3, thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum, phát hiện Quán ăn Phố Núi trên đường Quốc Lộ 24 đóng cửa bên ngoài nên đã nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài. A N đi vòng ra phía sau nhà thì thấy cửa bị khoá bên trong nên lấy 02 thanh kim loại gần đó dùng làm công cụ để cạy phá cửa. Sau khi cạy được cửa, A N lẻn vào bên trong, phát hiện trong nhà có camera giám sát an ninh, A N lấy 01 cái chổi trong nhà để che mặt, rồi đi tới ngắt nguồn điện vào camera. A N bắt đầu lục lọi để tìm tài sản và lấy được 5.250.000 đồng ở trong tủ đựng đồ cá nhân tại phòng ngủ, 01 loa kéo nhãn hiệu Temeisheng, 02 micro không dây, 01 máy tính bảng nhãn hiệu Samsung, 10 gói thuốc lá nhãn hiệu Eagle Golden, 08 gói thuốc lá nhãn hiệu White Horse. Sau đó, A N mang toàn bộ số tài sản chiếm đoạt được giấu tại cống thoát nước ở khu vực Tháp chuông thuộc tổ dân phố 4, thị trấn Măng Đen. Đến ngày 09/4/2020, chị Nguyễn Thị V - chủ quán Phố Núi từ Bình Định trở về nhà kiểm tra thì thấy mất số tài sản trên nên đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Kon Plông trình báo sự việc. Qua xác minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra phát hiện đối tượng A N, sinh ngày 07/8/2002 tại thôn K, xã M, huyện K có dấu hiệu khả nghi nên đã mời về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan điều tra, A N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội vào ngày 03/4/2020 và chỉ nơi cất giấu 01 loa phát âm thanh, 01 máy tính bảng, 08 gói thuốc lá hiệu White horse, 10 gói thuốc hiệu Eagle Golden. Đối với số tiền 5.250.000 đồng mà A N trộm cắp được đã tiêu xài cá nhân hết, không thu hồi được.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 13 ngày 23/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Kon Plông kết luận số tài sản gồm 01 loa phát âm thanh, 01 máy tính bảng, 08 gói thuốc lá hiệu White horse, 10 gói thuốc hiệu Eagle Golden có tổng giá trị là 10.197.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà A N chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Vân là 15.447.000đồng.

Ngày 15/5/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Kon Plông đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự “Trộm cắp tài sản”, quyết định khởi tố bị can, ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với A N về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo quy định Điều 173 Bộ luật hình sự.

Sau khi A N bị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Kon Plông khởi tố bị can về tội “Trộm cắp tài sản” và ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú thì vào chiều ngày 26/5/2020, A N lại nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Do đó, A N một mình đến khu vực thôn Măng Búk, xã Măng Bút, huyện Kon Plông (khu sân bay cũ) thì thấy nhà của A P đang khoá cửa, không có người trông coi. A N liền lấy 01 cái cuốc cán bằng gỗ, lưỡi bằng sắt để gần đó và móc phần lưỡi cuốc vào khe hở của cửa nhà rồi dùng sức nạy cửa cho đến khi cửa bị mở bung. A N lẻn vào trong nhà tìm tài sản thì thấy 01 laptop để ở đầu giường trong phòng ngủ.

A N lấy chiếc laptop và đi ra ngoài, giấu ở bụi cây sim gần đường. Cùng lúc này, chị Y Th điều khiển mô tô BKS 82L1-031.01 đến nhà anh A Dân chơi, nhà A Dân gần nhà A P. Khi đến nhà anh A Dân, chị Y Th dựng xe ở cổng, để chìa khóa trên xe và đi vào nhà. Lúc này, A N nhìn thấy xe mô tô của chị Y Th đang dựng ở cổng nhà A Dân, gần đường tỉnh lộ 676, A N nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô trên nên đã tiếp cận tài sản thì thấy chìa khóa vẫn găm trên xe. Do đó, A N đề máy và điều khiển xe chạy theo hướng ra Trung tâm huyện Kon Plông. Đến khoảng 18 giờ 25 phút cùng ngày, chị Th phát hiện mất xe mô tô nên đã điện thoại báo cho Công an xã Măng Bút để trình báo sự việc. Trong lúc này, Công an xã Măng Bút đang tổ chức tuần tra an ninh trật tự, phát hiện A N điều khiển xe mô tô có đặc điểm như chị Th trình báo chạy về hướng trung tâm huyện Kon Plông. Công an xã tiến hành truy đuổi đến khu vực chốt liên ngành kiểm soát lâm sản thuộc xã Măng Cành, huyện Kon Plông đã phối hợp cùng Cảnh sát điều tra công an huyện Kon Plông khống chế được A N cùng tang vật. Ngày 27/5/2020, A Pen về nhà thì phát hiện mất 01 laptop nhãn hiệu Asus nên đã đến Cơ quan Công an trình báo. Tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kon Plông, A N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 15/KL-HĐĐG ngày 29/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Kon Plông kết luận xe mô tô BKS 82L1-031.01 có giá trị là 8.000.000 đồng.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 16/KL-HĐĐG ngày 18/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Kon Plông kết luận laptop nhãn hiệu Asus có giá trị 2.500.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản do A N chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị V anh A P, chị Y Th là 25.947.000 đồng.

Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Kon Plông đã ra quyết định khởi tố vụ án, nhập vụ án, ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, áp dụng biện pháp ngăn chặn theo quy định.

Tại Bản Cáo trạng số: 06/CT - VKS ngày 04 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông truy tố bị cáo A N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông công bố bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung (bỏ nhận xét bị can phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông phát biểu luận tội: đã phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa; đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân; tình tiết tăng nặng; tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.

Qua đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 6 Điểu 91; khoản 1 Điểu 101; khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo A N từ 09 tháng đến 12 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là 26/5/2020.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, không có nguồn thu nhập, sống phụ thuộc vào gia đình đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về vật chứng: Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra công an huyện Kon Plông đã ra quyết định xử lý vật chứng và trả lại tài sản cho các chủ sở hữu hợp pháp nên đề nghị không xem xét.

Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại đã nhận lại tài sản bị mất, bị cáo tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho chị Nguyễn Thị V số tiền 1.000.000 đồng. Chị V, anh A P, chị Y Th không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, không có nguồn thu nhập, sống phụ thuộc vào gia đình, có đơn xin miễn án phí, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo A N đã khai nhận những hành vi phạm tội như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông đã truy tố. Bị cáo đã nhận thức rõ hành vi sai trái của mình và cảm thấy rất ân hận, xấu hổ mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Thống nhất với cáo trạng của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông và luận tội về đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân; tình tiết tăng nặng; và các tình tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo A N.

Tuy nhiên chưa thống nhất về đề nghị mức hình phạt từ 09 đến 12 tháng tù. Vì bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi; là người dân tộc thiểu số sinh sống vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nhận thức pháp luật của bị cáo còn hạn chế; cha chết, mẹ đi lấy chồng khác nên bị cáo thiếu sự chăm sóc, giáo dục của cha mẹ;

Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm các tình tiết nêu trên để xử phạt bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt là 06 tháng tù. Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo và miễn án phí cho bị cáo.

Bị hại Nguyễn Thị V, A P, Y Th đều có đơn xin xét xử vắng mặt nhưng đã khai đầy đủ, cụ thể tại giai đoạn điều tra; các lời khai phù hợp với nội dung, tình tiết về việc bị mất tài sản như đã nêu ở trên, đều xác nhận đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường thêm. Những người bị hại đều có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Tại phiên tòa, bà Y D2 là mẹ ruột không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả lại số tiền 1.000.000 đồng đã bồi thường cho chị Nguyễn Thị V nên Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kon Plông, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người bào chữa, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa. Vì vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Vào chiều tối, ngày 03/4/2020, tại quán Phố Núi thuộc tổ dân phố 3, thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, do cần tiền tiêu xài cá nhân, lợi dụng trời tối, chủ sở hữu vắng nhà, A N đã lén lút, ra phía sau cạy cửa vào nhà chiếm đoạt tài sản của chị Nguyễn Thị Vgồm 5.250.000 đồng, 01 loa nhãn hiệu Temeisheng màu đen, 02 micro không dây, không rõ nhãn hiệu, 01 máy tính bảng nhãn hiệu Samsung Galaxy Book màu xám, bị vỡ màn hình, 10 gói thuốc lá nhãn hiệu Eagle Golden, 08 gói thuốc lá nhãn hiệu White Horse. Tổng giá trị là 15.447.000đồng;

Chiều tối ngày 26/5/2020 tại thôn Măng Búk, xã Măng Bút, huyện Kon Plông A N thấy nhà A P đang khoá cửa, lợi dụng không có người trông coi. A N liền lấy 01 cái cuốc cán bằng gỗ, lưỡi bằng sắt nạy cửa bung ra, A N đã lén lút vào nhà chiếm đoạt 01 máy tính xách tay nhãn hiệu ASUS X554L core i3-5010 màu đen trị giá 2.500.000đồng của anh A P đem giấu ở bụi cây sim gần đường. Cùng lúc này, bị cáo thấy chị Y Th dựng xe ở cổng nhà A Dân gần nhà A P, để chìa khóa trên xe và đi vào nhà. A N nảy sinh ý định và lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade, BKS 82L1-031.01 trị giá 8.000.000đồng của chị Y Th.

Tổng giá trị tài sản 03 lần bị cáo chiếm đoạt là 25.947.000 đồng, mỗi lần bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

Như vậy, có đủ cơ sở xác định hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, Cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 04 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông truy tố bị cáo có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất và mức độ thì vụ án ít nghiêm trọng. Tuy nhiên, bị cáo nhiều lần cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn.

Mặc dù, khi thực hiện hành vi phạm tội “Trộm cắp tài sản” của gia đình chị Nguyễn Thị Vân ngày 3/4/2020 bị cáo chưa đủ 18 tuổi, bị Cơ quan điều tra công an huyện Kon Plông khởi tố và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng bị cáo lại tiếp tục phạm tội “Trộm cắp tài sản” của anh A Pen và chị Y Thiêng vào ngày 26/5/2020. Điều đó chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật. Do đó cần xử phạt bị cáo nghiêm minh (cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian) mới đủ tác dụng trừng trị, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4]. Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội đế quyết định hình phạt cho bị cáo.

- Về đặc điểm nhân thân: Tuy bị cáo chưa bị kết án, chưa bị bị xử lý vi phạm hành chính nhưng thể hiện thái độ coi thường pháp luật (bị khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản” đang trong quá trình điều tra và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng bị cáo lại tiếp tục phạm tội “Trộm cắp tài sản”).

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã 03 lần thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản, do vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng phạm tội từ 2 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo không có tài sản để bồi thường nhưng đã tích cực tác động, đề nghị mẹ thay mình, bồi thường thiệt hại; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số, cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, làm nông, không có thu nhập ổn định, hơn nữa khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi. Do đó Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[6]. Về vật chứng của vụ án: Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kon Plông đã thu giữ 01 loa nhãn hiệu Temeisheng màu đen; 02 micro không dây, không rõ nhãn hiệu; 01 máy tính bảng nhãn hiệu Samsung Galaxy Book màu xám, bị vỡ màn hình; 10 gói thuốc lá nhãn hiệu Eagle Golden; 08 gói thuốc lá nhãn hiệu White Horse; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade, BKS 82L1- 031.01 và 01 máy tính xách tay nhãn hiệu ASUS X554L core i3-5010 màu đen và tất cả đã trao trả cho chủ sở hữu nên Hội đồng xét xử không đề cập.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8]. Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, không có nguồn thu nhập, sống phụ thuộc vào gia đình nên được miễn án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo A N phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng Điều 38; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 6 Điều 91; khoản 1 Điều 101; khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo A N 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là 26/5/2020.

Về án phí:

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo A N được miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2020/HS-ST ngày 24/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:04/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kon Plông - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về