Bản án 04/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 04/2020/HS-ST NGÀY 21/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2020, đối với bị cáo:

Lê Tuấn M, sinh năm 1997, tại thị xã N, tỉnh Sóc Trăng; nơi cư trú khóm T, Phường X, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Q và bà Lê Thị T; có vợ Lâm Thị Lan A và chưa có con; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân xấu, vào ngày 10-11-2017, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Phường X, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy với số tiền là 750.000 đồng (đã nộp phạt xong); bị tạm giữ từ ngày 25 tháng 12 năm 2019, sau đó chuyển qua tạm giam cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Lâm Thị Thanh L, sinh năm 1977; cư trú tại Khóm A, Phường X, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

- Người làm chứng: 1. Dương Văn N, sinh năm 2000; cư trú tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

2. Trần Hoài T1 (V), sinh năm 1988; cư trú tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 25-12-2019, tại quán cà phê 360, thuộc ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, lực lượng Công an huyện M, tỉnh Sóc Trăng bắt quả tang Lê Tuấn M đang có hành vi bán 01 tép ma túy đá cho Dương Văn N. Tang vật thu giữ gồm 01 bịch nylon hàn kính hai đầu, bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng nghi là chất ma túy nên được niêm phong (ký hiệu gói số 1); tiền Việt Nam 523.000 đồng; 01 đoạn ống tre dài 12,5cm và đường kính 1,5cm;

01 điện thoại di động hiệu Mobell màu đen xanh đã qua sử dụng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Winner biển số 83E1-224.XX. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của M, Cơ quan cảnh sát điều tra còn thu giữ thêm 01 bịch nylon hàn kín hai đầu, bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng nghi là chất ma túy nên được niêm phong (ký hiệu gói số 02); 01 bình ga mini nhãn hiệu Max trên đầu bình ga có gắn dụng cụ để khò lửa; 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy; 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng; 12 bịch nylon trong được hàn kín một đầu chưa qua sử dụng; 40 bịch nylon trong loại lớn chưa qua sử dụng; 01 bao thuốc lá nhãn hiệu Jet đã qua sử dụng và 01 hột quẹt ga màu đỏ đã qua sử dụng. Theo Kết luận giám định số 118/GĐMT- PC09 ngày 29-12-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng thì gói 01 mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1434 gam, loại Methamphetamine và gói 02 mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,5489 gam, loại Methamphetamine.

Trong quá trình điều tra, M thừa nhận vào khoảng 10 giờ ngày 25-12-2019, lúc M đang ở nhà bên vợ thuộc Khóm A, Phường X, thị xã N thì N gọi cho M qua zalo hỏi mua 01 tép ma túy với giá 300.000 đồng, đồng thời trả cho M 300.000 đồng tiền mà N mượn trước đó. Khoảng 30 phút sau, M điều khiển xe mô tô biển số 83E1-224.XX nhãn hiệu Winner đến quán cà phê 360, thuộc ấp P, xã H, huyện M để giao ma túy cho N. Trong lúc M nhận tiền 500.000 đồng từ N thì bị Công an huyện M bắt quả tang như đã nêu trên.

Về vật chứng của vụ án: Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra đã xác định được xe mô tô biển số 83E1-224.XX là của bà Lâm Thị Thanh L (mẹ vợ của M). Việc M sử dụng chiếc xe này đi bán ma túy là bà L không biết, do đó Cơ quan cảnh sát điều tra đã xử lý trả lại cho bà L theo Quyết định xử lý vật chứng ngày 11-02-2020, còn các vật chứng cũng như đồ vật khác có liên quan đã thu giữ ở trên chưa xử lý.

Tại bản cáo trạng số: 05/CT-VKSMT ngày 06-3-2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Lê Tuấn M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Hành vi của bị cáo M đã đủ yếu tố cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy. Vì vậy, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố. Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo M từ 03 năm tù đến 04 năm tù. Về xử lý vật chứng, đề nghị căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu, tiêu hủy 02 bịch nylon được hàn kính hai đầu, bên trong chứa chất tinh thể rắn màu trắng, qua giám định là ma túy loại Methamphetamine (đã niêm phong); 01 đoạn ống tre dài 12,5cm và đường kính 1,5cm; 01 bình ga mini nhãn hiệu Max trên đầu bình ga có gắn dụng cụ để khò lửa; 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy; 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng; 12 bịch nylon trong được hàn kín một đầu chưa qua sử dụng; 40 bịch nylon trong loại lớn chưa qua sử dụng; 01 bao thuốc lá nhãn hiệu Jet đã qua sử dụng và 01 hột quẹt ga màu đỏ đã qua sử dụng; tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu đen xanh đã qua sử dụng và số tiền 300.000 đồng; trả lại cho bị cáo M số tiền 223.000 đồng.

- Bị cáo M tự bào chữa: Nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Bị cáo không có ý kiến gì.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà L không có ý kiến gì.

- Lời nói sau cùng của bị cáo M: Xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng không có người nào có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo M đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của chính bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định: Bị cáo M là nghiện ma túy nên mua ma túy về sử dụng, đồng thời bán để kiếm lời. Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 25-12-2019, tại quán cà phê 360, thuộc ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, M đang bán 01 tép ma túy đá cho Dương Văn N thì bị lực lượng Công an huyện M, tỉnh Sóc Trăng bắt quả tang. Theo Kết luận giám định số 118/GĐMT-PC09 ngày 29-12-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng, ma túy mà M bán cho N là loại Methamphetamine. Căn cứ Danh mục II ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15-5-2018 của Chính phủ, quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất thì Methamphetamine là chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.

Việc bị cáo M bán chất ma túy này cho N mà không được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền là M phạm tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Khoản 1 Điều này quy định: “Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

[3] Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú truy tố M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là hoàn toàn có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan cho bị cáo.

[4] Hội đồng xét xử nhận thấy, hành vi phạm tội của bị cáo M là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về tàng trữ, vận chuyển, mua bán các chất ma túy và làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương; mặt khác, M có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không biết sửa đổi, nay lại phạm tội mua bán trái phép chất ma túy nên cần thiết phải xử lý thật nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật, cũng như giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa đấu tranh và chống tội phạm. Tuy nhiên, sau khi phạm tội, bị cáo cũng đã thành khẩn khai báo. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt tù đối với bị cáo M là có căn cứ và tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấp hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Hội đồng xét xử thấy, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì nghề nghiệp của bị cáo là buôn bán, bị cáo có thu nhập nên quyết định phạt bị cáo hình phạt bổ sung với số tiền là 10.000.000 đồng.

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng có thu giữ 02 bịch nylon được hàn kính hai đầu, bên trong chứa chất tinh thể rắn màu trắng, qua giám định là ma túy loại Methamphetamine (đã niêm phong), 01 đoạn ống tre dài 12,5cm và đường kính 1,5cm; 01 bình ga mini nhãn hiệu Max trên đầu bình ga có gắn dụng cụ để khò lửa; 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy; 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng; 12 bịch nylon trong được hàn kín một đầu chưa qua sử dụng; 40 bịch nylon trong loại lớn chưa qua sử dụng; 01 bao thuốc lá nhãn hiệu Jet đã qua sử dụng; 01 hột quẹt ga màu đỏ đã qua sử dụng;

01 điện thoại di động hiệu Mobell màu đen xanh đã qua sử dụng và số tiền Việt Nam là 523.000 đồng, chưa xử lý. Đối với số tiền 523.000 đồng trong đó có 300.000 đồng là tiền bán ma túy, còn 223.000 đồng là tiền cá nhân của bị cáo M và tiền của N trả cho M do mượn. Do đó, căn cứ điểm b khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước 300.000 đồng, trả lại cho bị cáo M 223.000 đồng. Đối với những vật chứng còn lại là phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành và vật chứng không có giá trị sử dụng. Do đó, căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu, tiêu hủy 02 bịch nylon được hàn kính hai đầu, bên trong chứa chất tinh thể rắn màu trắng, qua giám định là ma túy loại Methamphetamine (đã niêm phong); 01 đoạn ống tre dài 12,5cm và đường kính 1,5cm; 01 bình ga mini nhãn hiệu Max trên đầu bình ga có gắn dụng cụ để khò lửa; 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy; 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng; 12 bịch nylon trong được hàn kín một đầu chưa qua sử dụng; 40 bịch nylon trong loại lớn chưa qua sử dụng; 01 bao thuốc lá nhãn hiệu Jet đã qua sử dụng và 01 hột quẹt ga màu đỏ đã qua sử dụng; tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu đen xanh đã qua sử dụng.

[8] Về án phí: Hội đồng xét xử thấy, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Án phí do người bị kết án hoặc Nhà nước chịu theo quy định của pháp luật. Người bị kết án phải trả án phí theo quyết định của Tòa án. Mức án phí và căn cứ áp dụng được ghi rõ trong bản án, quyết định của Tòa án” và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án quy định: “a) Người bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm;....”. Như vậy, bị cáo M là người bị kết án cho nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, b, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Tuấn M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Phạt bị cáo Lê Tuấn M 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (tức ngày 25 tháng 12 năm 2019).

- Phạt bổ sung bị cáo Lê Tuấn M số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 02 (hai) bịch nylon được hàn kính hai đầu, bên trong chứa chất tinh thể rắn màu trắng, qua giám định là ma túy loại Methamphetamine (đã niêm phong), 01 (một) đoạn ống tre dài 12,5cm và đường kính 1,5cm; 01 (một) bình ga mini nhãn hiệu Max trên đầu bình ga có gắn dụng cụ để khò lửa;

01 (một) bộ dụng cụ để sử dụng ma túy; 01 (một) cây kéo bằng kim loại màu trắng; 12 (mười hai) bịch nylon trong được hàn kín một đầu chưa qua sử dụng; 40 (bốn mươi) bịch nylon trong loại lớn chưa qua sử dụng; 01 (một) bao thuốc lá nhãn hiệu Jet đã qua sử dụng và 01 (một) hột quẹt ga màu đỏ đã qua sử dụng, theo Quyết định tạm giữ đồ vật, tài liệu số 04/QĐ ngày 09 tháng 01 năm 2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobell màu đen xanh đã qua sử dụng và số tiền Việt Nam là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo các Quyết định tạm giữ đồ vật, tài liệu số 04/QĐ và 05/QĐ, cùng ngày 09 tháng 01 năm 2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.

- Trả lại cho bị cáo Lê Tuấn M số tiền Việt Nam là 223.000 đồng (Hai trăm hai mươi ba nghìn đồng), theo các Quyết định tạm giữ đồ vật, tài liệu số 04/QĐ và 05/QĐ, cùng ngày 09 tháng 01 năm 2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Tuấn M chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về