Bản án 04/2020/HSST ngày 17/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU-TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 04/2020/HSST NGÀY 17/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 01 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 181/2019/HSST ngày 05 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn N; tên gọi khác: Không.

Giới tính: Nam. Sinh năm 1980, tại Nam Định. Nơi ĐKHKTT: Thôn B, xã Y, huyện Ý , tỉnh N. Nơi cư trú: Không có nơi cư trú nhất định.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

Trình độ học vấn: 2/12; Nghề nghiệp: Không.

Con ông Nguyễn Văn T(đã chết) và con bà Phạm Thị G, sinh năm 1956, hiện trú tại Thôn B, xã Y, huyện Ý , tỉnh N. Có vợ Đỗ Thị C, sinh năm 1983. Bị cáo có 02 con, sinh năm 2003 và 2005.

Vợ và các con của bị cáo hiện trú tại xã T, huyện T, tỉnh H.

Tiền sự: Không. Tiền án: Không. Về nhân thân:

- Ngày 05/11/2009, bị Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức: Phạt tiền, về hành vi trộm cắp tài sản, tại Quyết định số 76. Hiện Quyết định xử phạt này đã hết thời hiệu thi hành.

- Ngày 25/8/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai xử phạt 06 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” (theo quy định tại Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009), tại Bản án số 20/2010/HSST; chấp hành tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai. Ngày 29/10/2010, chấp hành xong hình phạt tù (Bản án này đã được xóa án tích).

- Ngày 10/7/2012, bị Tòa án nhân dân TP.Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 06 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” (theo quy định tại Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009), tại Bản án số 90/2012/HSST; chấp hành tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. Ngày 22/9/2012, chấp hành xong hình phạt tù (Bản án này đã được xóa án tích).

- Ngày 15/01/2013, bị Tòa án nhân dân TP.Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 09 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” (theo quy định tại Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009), tại Bản án số 02/2013/HSST; chấp hành tại Trại giam Thanh Phong, Bộ Công an. Ngày 03/7/2013, chấp hành xong hình phạt tù (Bản án này đã được xóa án tích).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/8/2019 cho đến nay. Hiện nay bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP.Pleiku, tỉnh Gia Lai.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Nhng người tham gia tố tụng khác:

1. Bị hại:

- Anh Vũ Trung K, sinh năm 1984. Địa chỉ: 306 Lý Thái Tổ, Tổ 12, phường Yên Đỗ, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Chị Trần Thị Ngọc S, sinh năm 1994. Địa chỉ: 658 Lê Duẩn, Tổ 01, phường Thắng Lợi, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn Q. Địa chỉ: 302 Hùng Vương, tổ 01, phường Hội Thương, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

3. Người làm chứng: Anh Phạm Công N, sinh năm 1989. Địa chỉ: Thôn Mỹ Thạnh, Thị trấn Chư Sê, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án như sau:

Trong các ngày 11 và 28/8/2019, Nguyễn Văn N đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Gia Lai, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 01 giờ ngày 11/8/2019, Nguyễn Văn N đi lang thang đến Khoa Sản, Bệnh viện đa khoa tỉnh Gia Lai để tìm cơ hội trộm cắp tài sản của bệnh nhân hoặc người nhà bệnh nhân đang điều trị tại đây. Khi đến phòng điều trị số B1, tầng 3, N phát hiện anh Vũ Trung K (sinh năm 1984, trú Tổ 12, phường Yên Đỗ, TP.Pleiku, tỉnh Gia Lai) đang nằm ngủ và đang sạc pin điện thoại di động hiệu Samsung J2 Prime màu bạc ở đầu giường. N lẻn vào phòng, rút dây sạc và lấy trộm điện thoại trên của anh Kiên. Sau đó, N mang điện thoại trộm cắp được đến cửa hàng điện thoại Hoàn Thiện (số 302 đường Hùng Vương, phường Hội Thương, TP.Pleiku, tỉnh Gia Lai) thế chấp cho Anh Nguyễn Văn Q (sinh năm 1987, là chủ cửa hàng) lấy 800.000 đồng (tám trăm nghìn đồng) sử dụng tiêu xài cá nhân (Bút lục số: 58-62, 71-81).

Vụ thứ hai: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 28/8/2019, Nguyễn Văn N tiếp tục đến Khoa Sản, Bệnh viện đa khoa tỉnh Gia Lai, để tìm cơ hội trộm cắp tài sản. Khi đến phòng điều trị số 3, tầng 3, N phát hiện chị Trần Thị Ngọc S (sinh năm 1994, trú Tổ 1, phường Thắng Lợi, TP.Pleiku, tỉnh Gia Lai) đang nằm ngủ trên giường và đang để điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu đen sạc pin ở bên cạnh. N lẻn vào phòng, rút dây sạc và lấy trộm điện thoại trên của chị San. Khi N vừa đi ra đến cửa phòng, thì bị chị San phát hiện, truy hô. Ngay sau đó, N bị Anh Phạm Công N (sinh năm 1989, trú thôn Mỹ Thạch 3, thị trấn Chư Sê, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai – là người đi chăm sóc bệnh nhân) đuổi theo bắt giữ, chuyển giao cho Công an phường Phù Đổng, TP.Pleiku xử lý. Công an phường Phù Đổng đã lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với N, thu giữ của N 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, mà N vừa trộm cắp của chị San; 01 hóa đơn thế chấp điện thoại di động hiệu Samsung J2 Prime, đề ngày 14/8/2019 của cửa hàng điện thoại Hoàn Thiện. Khi Cơ quan Công an đến làm việc, Anh Nguyễn Văn Q (là chủ cửa hàng điện thoại Hoàn Thiện) đã giao nộp điện thoại di động hiệu Samsung J2 Prime nhận thế chấp của N trước đó; đây là điện thoại N trộm cắp của anh Vũ Trung K vào ngày 11/8/2019.

Tại Kết luận định giá số 135/KL-HĐĐG ngày 30/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP.Pleiku, kết luận:

“01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus 32 GB, màu đen, số Imei: 353808083950567, mua tháng 4/2018, sử dụng đến thời điểm ngày 28/8/2019 bị chiếm đoạt, hiện đã thu hồi được; có trị giá còn lại thực tế theo giá thị trường là: 5.000.000 đồng.

01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J2 Prime, màu bạc, số Imei: 359046083837633/359047083837631, mua tháng 5/2018, sử dụng đến thời điểm ngày 11/8/2019 bị chiếm đoạt, hiện đã thu hồi được; có trị giá còn lại thực tế theo giá thị trường là: 800.000 đồng”.

Sau khi định giá, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.Pleiku đã xử lý trả lại các chiếc điện thoại di động trên cho chị Trần Thị Ngọc S và anh Vũ Trung K.

Đối với Anh Nguyễn Văn Q, khi nhận thế chấp điện thoại di động hiệu Samsung J2 Prime của bị cáo Nguyễn Văn N, anh Quý không biết đây là tài sản do N trộm cắp mà có. Cơ quan điều tra không xem xét, xử lý đối với anh Quý về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Về dân sự: Sau khi được nhận lại tài sản, chị Trần Thị Ngọc S và anh Vũ Trung K không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự; Anh Nguyễn Văn Q cũng không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự Tại bản cáo trạng số: 179/CT-VKS ngày 30/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai truy tố bị cáo Nguyễn Văn N về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

- Áp dụng: khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của bệnh nhân, người nhà bệnh nhân đang điều trị tại Khoa Sản, Bệnh viện đa khoa tỉnh Gia Lai, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản, trong các ngày 11 và 28/8/2019, tài sản chiếm đoạt là 01 điện thoại di động hiệu Samsung J2 Prime trị giá 800.000 đồng (tám trăm nghìn đồng) của anh Vũ Trung K và điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus 32 GB trị giá 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) của chị Trần Thị Ngọc S.

[2] Lời khai của bị cáo phù hợp với lơi khai cua ngươi bi ̣ hai cung cac tai liêu chưng cư khac co trong hồ sơ vu án. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đối với bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Tình hình tội phạm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Pleiku ngày càng gia tăng, phức tạp, manh động và ngày càng nguy hiểm hơn.

[3] Xét hành vi của bị cáo: khi thấy sự sơ hở của chủ sở hữu tài sản trong việc quản lý tài sản là bị cáo liền lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 5.800.000 đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong nhân dân.

[4] Trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo. Tuy nhiên bị cáo đã bị xét xử 03 lần cùng một tội danh là “Trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội (03 bản án trước đã được xóa án tích). Nên dù giảm nhẹ nhưng để đảm bảo được biện pháp giáo dục và phòng ngừa chung, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo thành người lương thiện.

Đối với Anh Nguyễn Văn Q, khi nhận thế chấp điện thoại di động hiệu Samsung J2 Prime của bị cáo Nguyễn Văn N, anh Quý không biết đây là tài sản do N trộm cắp mà có. Cơ quan điều tra không xử lý đối với anh Quý về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là đúng pháp luật.

[5] Về dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Văn N phai chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng: khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn N 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/8/2019.

- Căn cứ: khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn N phai chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo co quyền kháng cáo Bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yếu tại Ủy ban nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2020/HSST ngày 17/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:04/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về