Bản án 04/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 04/2020/HS-ST NGÀY 15/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 15 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 264/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Văn M - sinh năm 1995; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nơi cư trú: Ấp A, thị trấn B, huyện C, tỉnh Cà Mau; trình độ học vấn: 06/12; nghề nghiệp: Không; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phan Văn O, sinh năm 1964; con bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1966;

Tiền án: 02 lần:

Tại bản án số 09/2017/HS-ST, ngày 17/01/2017 của TAND Quận B, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt Phan Văn M 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 23/4/2017. Đã chấp hành xong án phí.

Tại bản án số 211/2018/HS-ST, ngày 05/9/2018 của TAND Quận N, thành phố C, xử phạt Phan Văn M 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 15/8/2019. Đã chấp hành xong án phí.

Tiền sự:

Ngày 06/9/2019, Phan Văn M bị Công an thị trấn B, huyện C, tỉnh Cà Mau xử phạt 300.000 đồng về hành vi “Gây mất trật tự nơi công cộng”. Chấp hành xong Quyết định ngày 06/9/2019.

Ngày 23/9/2019, Phan Văn M bị Công an thị trấn B, huyện C, tỉnh Cà Mau xử phạt 300.000 đồng về hành vi “Có lời nói thô bạo, xúc phạm danh dự nhân phẩm người khác”. Chấp hành xong Quyết định ngày 23/9/2019.

Nhân thân:

Ngày 20/9/2016, Phan Văn M bị Công an phường B, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 03/10/2019, đến ngày 09/10/2019 chuyển tạm giam cho đến nay.

Bị cáo bị tạm giam có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Chị Lê Thị H - sinh năm 1978 (vắng mặt).

Địa chỉ: Số 222/22A, khóm 5, phường 6, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 03/10/2019, Phan Văn M đi xe buýt từ thị trấn A, huyện B về thành phố C để đi chơi. Khoảng 10 giờ 50 phút cùng ngày, M đến bến xe C. Sau đó M đi bộ về hướng sân bay C. Khi đi đến nhà của chị Lê Thị H thuộc khóm 5, phường 6, thành phố C, tỉnh Cà Mau, thì M thấy cửa nhà chị H mở nên M đi vào nhà, vào phòng ngủ và mở hộc bàn trong phòng, phát hiện có 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng, M lấy điện thoại cầm trên tay và đi ra ngoài. Khi M vừa đi đến phòng khách thì bị chị H từ nhà sau đi lên phát hiện bắt giữ M và báo Công an phường 6 tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tang vật thu giữ:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Grandy màu trắng;

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro màu vàng;

- 01 đồng hồ hiệu Rado màu đen;

- 01 thẻ ATM mang tên Phan Văn M;

- 01 giấy bảo hiểm y tế mang tên Phan Văn M;

- 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Phan Văn M;

- 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 69 E1- 085.80 tên Phan Văn M;

- 01 bóp da màu đen.

Tại kết luận giám định số 111/KL-HĐĐG ngày 04/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố C kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Grandy màu trắng, giá trị còn lại 10% là 8.700.000 đồng x 10% = 870.000 đồng.

Ngày 09/10/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C đã tiến hành trao trả lại 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Grandy màu trắng cho chị Lê Thị H.

Hiện chị Lê Thị H đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, chị H không có yêu cầu về dân sự.

Tại Cáo trạng số: 10/CT-VKS ngày 16/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau đã truy tố bị cáo Phan Văn M về tội "Trộm cắp tài sản" theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Phan Văn M. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phan Văn M từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Trả lại cho bị cáo các tài sản gồm: 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro màu vàng; 01 đồng hồ hiệu Rado màu đen; 01 thẻ ATM mang tên Phan Văn M; 01 giấy bảo hiểm y tế mang tên Phan Văn M; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Phan Văn M; 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 69 E1- 085.80 tên Phan Văn M; 01 bóp da màu đen.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 10 giờ 50 phút, ngày 03/10/2019, tại khóm A, phường B, thành phố C, tỉnh Cà Mau, bị cáo Phan Văn M phát hiện nhà chị Lê Thị H mở cửa nên bị cáo nảy sinh ý định đi vào tìm tài sản chiếm đoạt. Bị cáo lén lúc chiếm đoạt của chị H 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng, khi bị cáo vừa định bỏ đi thì bị chị H phát hiện bắt giữ, báo Công an lập Biên bản phạm tội quả tang.

Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của bị hại là 870.000 đồng.

[2] Bị cáo Phan Văn M có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích.

[3] Tại phiên tòa bị cáo Phan Văn M thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Xét lời khai của bị cáo M tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, với kết quả định giá tài sản, cùng các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Từ đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Phan Văn M về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xét hành vi của bị cáo M là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người có đủ nhận thức, biết được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật và sẽ bị pháp luật xử lý, nhưng vì lười lao động, muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà bị cáo bất chấp hậu quả để phạm tội. Do đó, cần áp dụng mức án tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra.

[5] Tuy nhiên, bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn; sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, Hội đồng xét xử có xem xét giảm án cho bị cáo, nhằm thể hiện tính khoan H của pháp luật.

[6] Dân sự: Bị hại chị Lê Thị H đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu gì về dân sự, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Tang vật:

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Grandy màu trắng của bị hại Lê Thị H. Ngày 09/10/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C đã tiến hành trao trả lại điện thoại trên cho chị H, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Đối với: 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro màu vàng; 01 đồng hồ hiệu Rado màu đen; 01 thẻ ATM mang tên Phan Văn M; 01 giấy bảo hiểm y tế mang tên Phan Văn M; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Phan Văn M; 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 69 E1- 085.80 tên Phan Văn M; 01 bóp da màu đen. Tất cả là giấy tờ, tài sản trên là của cá nhân bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[8] Trong quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã có hành vi tố tụng, quyết định tố tụng đúng quy định.

[9] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn M phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Xử phạt: Bị cáo Phan Văn M 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/10/2019.

Tang vật:

Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro màu vàng; 01 đồng hồ hiệu Rado màu đen; 01 thẻ ATM mang tên Phan Văn M; 01 giấy bảo hiểm y tế mang tên Phan Văn M; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Phan Văn M; 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 69 E1- 085.80 tên Phan Văn M; 01 bóp da màu đen.

Vật chứng trên thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/12/2019 giữa Chi cục thi hành án dân sự thành phố C và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải nộp 200.000 đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:04/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về