Bản án 04/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG 

BẢN ÁN 04/2020/HS-ST NGÀY 13/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Sóc Trăng tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2019/TLST-HS ngày 30-12-2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2020/QĐXXST-HS ngày 06-01-2020 đối với bị cáo:

Trần Phong Trân V (có tên gọi khác là K), sinh năm 1990; Nơi sinh: Sóc Trăng; Số 388 đường L, Khóm 3, Phường 4, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Hoa; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Con ông Trần Kiểm H và bà Trần Thị Thu N; Có vợ và 01 người con; Tiền sự: không; Tiền án: 01 lần, vào ngày 09-8- 2018 bị Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2018/HS-ST, đến ngày 03- 4-2019 chấp hành xong hình phạt tù nhưng ở lần phạm tội này của bị cáo chưa được xóa án tích; Về nhân thân: có 01 lần tiền sự vào ngày 28-5-2018 bị Công an xã Viên An, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” đến lần phạm tội này bị cáo được coi là chưa bị xử phạt hành chính; Bị bắt, tạm giữ chuyển tạm giam từ ngày 10-12- 2019 cho đến nay. (có mặt)

- Bị hại: Bà Trần Thanh T, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Số 571/57 đường N, Khóm 4, Phường 9, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

- Người làm chứng: Ông Triệu Minh T, sinh năm 1987; Nơi cư trú: Số 79 V, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài cá nhân và ma túy sử dụng nên V nảy sinh ý định đi tìm tài sản của người khác lấy trộm. Vào khoảng 07 giờ ngày 10-12-2019, V một mình đi bộ từ nhà đến trước kiốt Số 17 của chợ M đường Đ, Phường 9, thành phố S thì nhìn thấy trên xe mô tô biển số 83D1-091.62 do chị Trần Thanh T là chủ sở hữu đang đậu, phía trước xe chỗ gác chân xe có để 01 thùng sữa hiệu Milo bên trong có 48 hộp, mỗi hộp 180ml, lúc này V quan sát không có người để ý và chị T đang bước xuống xe để mua bánh nên lén lút đi đến chỗ dựng xe lấy trộm thùng sữa và bỏ đi ra hướng đường P, lúc này chị T phát hiện nên tri hô lên và rượt theo V, khi chạy qua trụ sở Ban Quản lý chợ thì lực lượng Ban Quản lý chợ phát hiện rồi đuổi theo V đến đường N, Phường 1, thành phố S thì bắt được V cùng vật chứng giao cho Công an Phường 1, thành phố S xử lý.

Tại Kết luận Định giá Tài sản số 163/KL.ĐGTS ngày 11-12-2019 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân thành phố S, tỉnh Sóc Trăng kết luận: 01 thùng sữa nhãn hiệu Milo, loại hộp giấy (có 48 hộp, mỗi hộp có dung tích 180ml) chưa qua sử dụng, giá trị sử dụng còn lại 100%, với số tiền là 01 x 306.000 đồng/thùng x 100% = 306.000 đồng.

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 08/QĐ-VKS.TPST ngày 30-12-2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố S đã truy tố bị cáo Trần Phong Trân V về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị tuyên bố bị cáo Trần Phong Trân V phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng điểm b Khoản 1 Điều 173; điểm h, s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đề nghị xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên không đề cập xử lý.

Tại phiên tòa, bị hại bà Trần Thanh T vắng mặt nên Hội đồng xét xử xem xét lời khai của bà T tại các biên bản ghi lời khai trong quá trình điều tra thì bà T thừa nhận đã nhận lại tài sản không yêu cầu bị cáo bồi thường. Về hình phạt yêu cầu xử phạt bị cáo theo quy định pháp luật.

Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng tội. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, vắng mặt bị hại bà Trần Thanh T và người làm chứng là ông Triệu Minh T. Xét thấy, trong quá trình điều tra thì những người nêu trên đã có lời khai rõ ràng về các tình tiết của vụ án và việc vắng mặt cũng không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xét xử vắng mặt đối với những người nêu trên.

[3]. Tại phiên tòa, bị cáo Trần Phong Trân V đã khai nhận: Do muốn có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng nên vào khoảng 07 giờ ngày 10-12-2019, khi bị cáo đi bộ đến trước ki ốt Số 17 của chợ M đường Đ, Phường 9, thành phố S thì nhìn thấy trên chỗ gác chân của xe mô tô biển số 83D1-091.62 có để 01 thùng sữa hiệu Milo, quan sát không thấy ai để ý nên bị cáo lén lút đi đến lấy trộm thùng sữa rồi bỏ chạy đến đường N, Phường 1, thành phố S thì bị lực lượng Ban Quản lý chợ Sóc Trăng bắt giữ bị cáo cùng vật chứng giao cho công an xử lý.

[4]. Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở để xác định:

Đi với bị cáo Trần Phong Trân V đã lén lút trực tiếp chiếm đoạt tài sản của bị hại là 01 thùng sữa hiệu Milo bên trong có 48 hộp, mỗi hộp có dung tích 180ml, qua định giá tài sản có giá trị là 306.000 đồng. Mặc dù tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt có giá trị dưới 2.000.000 đồng nhưng do bị cáo đã có tiền án bị xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Do đó kết luận bị cáo Trần Phong Trân V phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5]. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo. Tài sản cũng đã kịp thời thu hồi trả lại cho người bị hại nên bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cần được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là bà Trần Thanh T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên không đặt ra xem xét.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[8]. Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh và việc áp dụng pháp luật là có căn cứ. Về hình phạt cần xử phạt bị cáo ở mức nghiêm khắc như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b Khoản 1 Điều 173; điểm h, s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Phong Trân V phạm tội “Trộm cắp tài sản” 1. Xử phạt bị cáo Trần Phong Trân V 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10-12-2019.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là bà Trần Thanh T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên không đặt ra xem xét.

3. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp là 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được cấp, tống đạt hợp lệ theo quy định pháp luật. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:04/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về