Bản án 04/2020/HSST ngày 12/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LANG CHÁNH, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 04/2020/HSST NGÀY 12/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở TAND huyện Lang Chánh mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2020/TLST-HS ngày 03/01/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2020/QĐXXST-HS ngày 31/01/2020 đối với bị cáo:

Lê Phi Q- Sinh năm: 1996 tại xã Giao An, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi cư trú: Thôn Chiềng Nang, xã Giao An, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa. 

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: Không;

Dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: không; và bà Lê Thị H; bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền án, tiền sự: Không;

Về nhân thân: Ngày 19 tháng 12 năm 2019, bị cơ quan CSĐT Công an huyện Lang Chánh khởi tố vụ án, khởi tố bị can về hành vi "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ"Ngày 21 tháng 12 năm 2019 bị cơ quan CSĐT Công an thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, khởi tố vụ án, khởi tố bị can về hành vi "Trộm cắp tài sản"

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/8/2019 đến ngày 14/8/2019 chuyển tạm giam. Ngày 05/11/2019 bị cáo được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa, theo Lệnh tạm gian số 01/LTG-CSĐT ngày 21/12/2019 của cơ quan CSĐT Công an huyện Lang Chánh, về hành vi "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ". Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo là: Ông Đặng Văn Đ - Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý chi nhánh số 2 (Có mặt);

Địa chỉ: Phố Lê Duẩn, thị trấn Ngọc Lặc, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa;

*Người bị hại:

1. Lê Văn T - sinh năm 1970 ( vắng mặt);

Nơi cư trú:Thôn Tân Tiến, xã Tân Phúc, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.

2. Lê Văn Y - sinh năm 1966 (vắng mặt);

Nơi cư trú: Thôn Cốc Mốc, xã Đồng Lương, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.

3. Phạm Văn Th - sinh năm 1991 (vắng mặt);

Nơi cư trú: Thôn Quên, xã Phúc Thịnh, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa.

4. Lương Thị H, sinh năm 1960 (Có mặt);

Nơi cư trú: Bản Giàng Vìn, xã Trí Nang, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.

5. Phạm Văn Q, sinh năm 1965 (Có mặt);

Nơi cư trú: Bản Giàng Vìn, xã Trí Nang, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.

6. Hoàng Thị D; sinh năm 1989;

Nơi cư trú: Bản Giàng Vìn, xã Trí Nang, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.

7. Lê Văn T, sinh năm 1979 (Vắng mặt);

Nơi cư trú: Thôn Cốc Mốc, xã Đồng Lương, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.

8. Phạm Thị L, sinh năm 1977; (Vắng mặt)

Nơi cư trú: Thôn Cui, xã Đồng Lương, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lê Hùng N (Có mặt);

Nơi cư trú: Bản Giàng Vìn, xã Trí Nang, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.

* Người làm chứng:

1. Phạm Văn X, sinh năm 1990 (Vắng mặt);

2. Phạm Thị H, sinh năm 1966 (Vắng mặt);

Đều cư trú tại: Thôn Cốc Mốc, xã Đồng Lương, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 02/8/2019, Lê Phi Q, sinh năm 1996, trú tại thôn Chiềng Nang, xã Giao An, huyện Lang Chánh và một số thanh niên cùng thôn, đến hát tại quán Karaoke Th Đ, thuộc thôn Cốc Mốc, xã Đồng Lương, huyện Lang Chánh. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày mọi người ra về. Do thiếu tiền thanh toán nên Q và nhóm bạn phải gửi lại một xe mô tô để làm tin, hẹn ngày hôm sau đến thanh toán tiền hát rồi lấy xe. Vì không đủ xe, nên nhóm bạn về trước hẹn lúc sau quay lại đón Q. Chờ lâu không thấy người đến đón nên Q đi bộ một mình theo quốc lộ 15A về nhà, nhưng Q lại đi nhầm đường theo hướng đi lên huyện Bá Thước. Đi cách quán hát khoảng 01km thì Q phát hiện mình đi nhầm đường nên Q quay ngược lại. Trên đường về, Q nhìn sang bên trái đường, thấy trên sân nhà anh Lê Văn T, ở thôn Tân Tiến, xã Tân Phúc, huyện Lang Chánh có dựng 01 xe mô tô, loại xe HON ĐA Wave, biểm kiểm soát: 36P7-2470. Quan sát thấy gia đình anh T và hàng xóm đã ngủ nên Quảng nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe để làm phương tiện đi về nhà. Q đi vào trong sân dắc xe môt ô ra đường quốc lộ 15A rồi đi về hướng thị trấn Lang Chánh. Đi được khoảng 40m, Quảng dừng lại mở khóa điện, do không mở được nên Q đã để xe lại bên lề đường bên phải theo hướng đi, Q đi bộ tiếp về hướng thị trấn Lang Chánh. Đi được khoảng 02 km thì Q nhìn thấy trong sân nhà anh Lê Văn Y ở thôn Cốc Mốc, xã Đồng Lương, có dựng 02 xe mô tô, thấy cổng chỉ khép lại nên Q nảy sinh ý định trộm cắp, Q liền đẩy cổng rồi đi vào sân lấy trộm 01 xe mô tô màu trắng loại xe YAMAHA sirius, biển kiểm soát: 36K5-084.70 ra ngoài đường rồi dắt xe đi cách khoảng 100m, hướng về thị trấn Lang Chánh. Q dừng lại mở khóa điện để nổ máy nhưng không mở được nên đã để xe lại bên lề đường, rồi Q quay lại nhà anh Y trộm cắp tiếp xe mô tô màu xanh, nhãn hiệu SUFAT, biển kiểm soát: 36L6-6380 ra ngoài đường. Sau khi dùng tay đấu nối dây điện ở khóa xe và khởi động nổ máy được, Q đi về theo hướng thị trấn Lang Chánh, trên đường đi về đến đoạn đường thuộc thôn Cui, xã Đồng Lương, Q thấy trước sân nhà chị Phạm Thị L có một thùng xe kéo (Dạng tự chế), Q nảy sinh ý định trộm cắp về làm dụng cụ lao động. Q dừng xe và lấy thùng xe kéo móc lên gác sau xe môt ô vừa trộm cắp được rồi đi về hướng xã Giao An. Trên đường đi về đến bản Vìn, xã Trí Nang, huyện Lang Chánh thì xe hết xăng. Q để xe máy và thùng xe kéo lại bên lề đường rồi đi bộ, khi đi được một đoạn đường Q thấy nhà bà Lê Thị L ở bản Giàng Vìn, xã Trí Nang có thắp điện sáng, ngoài sân có 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMHA sirius, biển kiểm soát: 36K5-039-57. Thấy cổng cửa sắt chỉ buộc một sợi dây nên Q tháo dây buộc cổng đi vào trong sân trộm cắp chiếc xe mô tô, Q dắc bộ đi khoảng 40m rồi tìm cách khởi động xe nhưng xe không nổ máy, nên Q để lại bên đường và tiếp tục đi bộ về hướng xã Giao An. Khi đi đến đoạn đường khu vực UBND xã Trí Nang, Q thấy trong sân nhà ông Lê Hùng N ở bên đường có dựng 01 xe mô tô, loại xe HON DA Future II, biển kiểm soát: 29U6-3011-18 nên đã vào lén lút dắc xe ra ngoài đường, do không mở được khóa điện, Q để lại ở lề đường rồi đi tiếp về hướng xã Giao An. Đi được một đoạn đường Q nhìn thấy trong sân nhà ông Phạm Văn Q ở bên đường có dựng một xe mô tô, loại xe mô tô YAMAHA sirius, biển kiểm soát: 36B3-411-18 nên đã vào dắc xe ra ngoài đường. Q đấu dây diện khởi động xe nhưng xe không nổ được máy nên Q để xe lại ở lề đường. Ngay sau đó, Q thấy nhà bà Lê Thị H ở thôn Giàng Vìn, xã Trí Nang có một xe đạp và đã vào lấy trộm rồi đạp xe đi về nhà ở thôn Chiềng Nang, xã Giao An. Về đến nhà, Q để xe đạp đưới gầm nhà sàn rồi lên nhà đi ngủ.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 11/KL- HĐĐG ngày 13/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản kết luận:

1. 01 chiếc xe môt tô biển kiểm soát: 36L6-6380 nhãn hiệu SUFAT, xe đã qua sử dụng, có giá trị 900.00đ (Chín trăm nghì đồng);

02. 01 chiếc xe mô tô, biển kiểm soát 36B3-411-18, nhãn hiệu YAMAHA sirius, xe đã qua sử dụng có giá trị 6.500.000đ (Sáu triệu năm trăm nghìn đồng);

03. 01 xe mô tô, biển kiểm soát 36K5-084-70, nhãn hiệu YAMAHA sirius, xe đã qua sử dụng, có giá trị 9.000.000đ (Chín triệu đồng);

04. 01 xe mô tô, biển kiểm soát 36K5-039-57, nhãn hiệu YAMAHA sirius, xe đã qua sử dụng, có giá trị 8.500.000đ (Tám triệu năm trăm nghìn đồng);

05. 01 xe mô tô, biển kiểm soát 36P7-2470, nhãn hiệu WAVE, xe đã qua sử dụng, có giá trị 7.500.000đ (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng);

06. 01 xe mô tô, biển kiểm soát 29U6-3011, nhãn hiệu HON DA, xe đã qua sử dụng, có giá trị 5.000.000đ (Năm triệu đồng);

07. 01 xe đạp, màu sơn xe đỏ, xe đã qua sử dụng, có giá trị 450.000đ (ốn trăm năm mươi nghìn đồng);

08. 01 thùng xe kéo hai bánh, dạng tự chế bằng sắt, dã qua sử dụng, có giá trị 1.250.000đ (Một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).

Tổng giá trị tài sản bị cáo trộm cắp là 39.100.000đ (Ba mươi chín triệu một trăm nghìn đồng).

Bản cáo trạng số 01/CTr VKS- LC ngày 30/12/2019 VKSND huyện Lang Chánh đã truy tố bị cáo Lê Phi Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Phi Q, phạm tội trộm cắp tài sản; đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của BLHS. Xử phạt bị cáo Lê Phi Quảng từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian bị cáo phải chấp hành án phạt tù.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi điều tra, cơ quan CSĐT đã xác định các chủ sở hữu tài sản hợp pháp và đã trả lại các tài sản cho người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật. Những người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đề nghị gì nên đề nghị HĐXX miễn xét.

Về án phí: Gia đình bị cáo thuộc gia đình hộ nghèo nên đề nghị miễn nộp tiền án phí HSST cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa hôm nay đồng ý với quan điểm của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Lê Phi Q về tội trộm cắp tài sản; đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của BLHS. Xử phạt bị cáo Lê Phi Q từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Đề nghị HĐXX trừ cho bị cáo số ngày bị tạm giữ, tạm giam là 90 ngày vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị HĐXX chấp nhận số tài sản bị cáo đã chiếm đoạt của các gia đình người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nay đã được cơ quan CSĐT trả lại cho người bị hại đầy đủ và không yêu cầu gì.

Về án phí: Gia đình bị cáo thuộc gia đình hộ nghèo đã có đơn đề nghị miễn nộp tiền án phí nên đề nghị HĐXX miễn nộp tiền án phí HSST cho bị cáo Q theo quy định của pháp luật.

Bị cáo đã thành khẩn nhận tội, thực sự ăn năn hối cải và không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo để bị cáo có điều kiện cải tạo sớm trở về hội nhập với cộng đồng, đoàn tụ cùng gia đình.

Người bị hại có mặt tại phiên tòa không đề nghị gì về phần bồi thường. Về phần hình phạt đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quền lợi, nghĩa vụ liên quan không đề nghị gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, cán bộ Điều tra Công an huyện Lang Chánh, Kiển sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lang Chánh trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện trình tự, thủ tục đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

[2] Về tội danh: Tại phiên toà, lời khai nhận của bị cáo phù hơp với nội dung bản Cáo trạng đã nêu, các chứng cứ, tài liệu được thu thập chứng minh trong hồ sơ vụ án, phù hợp với kết quả tranh luận tại phiên tòa, đủ cơ sở để kết luận: Vào đêm ngày 02 rạng sáng ngày 03/8/2019, Lê Phi Q, sau khi đi hát Kraoke trên đường về nhà, Lê Phi Q đã lợi dụng vào đêm khuya về sáng, lúc mọi người đang ngủ say đã lén lút vào các gia đình anh Lê Văn T, ở thôn Tân Tiến, xã Tân Phúc; gia đình ông Lê Văn Y ở Thôn Cốc Mốc, xã Đồng Lương; gia đình bà Phạm Thị L, ở thôn Cui, xã Đồng Lương; gia đình bà Lê Thị L; gia đình ông Lê Hùng N; gia đình ông Phạm Văn Q và gia đình bà Lê thị H đều ở bản Giàng Vìn, xã Trí Nang, các gia đình trên đều thuộc huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa, để trộm cắp tài sản. Tài sản bị cáo trộm cắp chủ yếu là xe mô tô.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 11/KL- HĐĐG ngày 13/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản kết luận: Tổng số tài sản bị cáo chiếm đoạt gồm 06 chiếc xe môt ô các loại; 01 xe đạp, và 01 thùng xe đầu kéo dạng tự chế. Tổng giá trị là 39.100.000đ (Ba mươi chín triệu một trăm nghìn đồng).

[3]Xét về tính chất vụ án, HĐXX thấy rằng, chỉ trong một thời gian ngắn và trên một địa bàn hẹp, bị cáo đã thực hiện nhiều lần trộm cắp tài sản và đều là xe mô tô. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội gây tâm lý hoang mang và dư luận xấu trong nhân dân địa phương. Để pháp luật được tôn trọng, trật tự xã hội được duy trì, tài sản của công dân được bảo hộ; để giáo dục người phạm tội và đấu tranh phòng ngừa tội phạm, nhất là loại tội trộm cắp tài sản đang diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng ở địa phương, hành vi phạm tội của bị cáo phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của Bộ luật hình sự.

[4]Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy rằng:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu; sau khi có hành vị trộm cắp tài sản, bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam, khi được thay đổi biện pháp ngăn chặn cho tại ngoại bằng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo lại có hành vi "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ", và hành vi "Trộm cắp tài sản"đã bị cơ quan CSĐT Công an huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa, và cơ quan CSĐT Công an thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La khởi tố vụ án, khởi tố bị can, về hành vi nêu trên, nên áp dụng Điều 38 của BLHS cần lên cho bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc và buộc bị cáo phải cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo bị cáo trở thành người tốt. Chỉ trong một thời gian ngắn bị cáo đã thực hiện nhiều lần trộm cắp tài sản nên áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS quy định tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, song sau khi phạm tội bị cáo đã đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Lang Chánh đầu thú, trong giai đoạn điều tra và tại phiên hòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, được quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của BLHS, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật để bị cáo yên tâm cải tạo sớm trở thành người tốt. Về hình phạt bổ sung, HĐXX thấy rằng; bị cáo thuộc gia đình hộ nghèo nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về phần bồi thường: Tài sản mà bị cáo chiếm đoạt của các gia đình người bị hại đã được nhận lại tài sản và không có đề nghị gì nên HĐXX miễn xét. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; tài sản bị chiếm đoạt đã được trả lại và không đề nghị gì nên HĐXX miễn xét.

Về án phí:Theo chứng cứ mà bị cáo cung cấp, thì bị cáo thuộc gia đình hộ nghèo, bị cáo có Đơn đề nghị miễn nộp tiền án phí HSST; HĐXX xét thấy bị cáo thuộc diện được miễn toàn bộ tiền án phí nên miễn nộp tiền án phí HSST cho bị cáo theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của BLHS; Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự ;

Căn cứ: Điểm đ Khoản 1 Điều 12; Khoản 6 Điều 15, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Phi Q phạm tội “Trộm cắp tài sản

Xử phạt: Bị cáo Lê Phi Q 24 (Hai bốn) tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam là 03 tháng (ba tháng) được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù. Buộc bị cáo còn phải chấp hành hình phạt tù là 21(Hai mốt) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về án phí: Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lê Phi Q theo quy định của pháp luật.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, người bị hại: có mặt ông Q, bà H, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông N. Bị cáo và những người nêu trên được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người bị hại vắng mặt tại phiên tòa gồm có: Ông T, ông Y, anh Th, chị D, anh T, và chị L, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niên yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2020/HSST ngày 12/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:04/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lang Chánh - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về