Bản án 04/2020/HNGĐ-ST ngày 14/02/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 04/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/02/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 222/2019/TLST-HNGĐ ngày 15/10/2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 02/01/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 10/QĐST-HNGĐ ngày 16/01/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, địa chỉ: Đ2, thôn P, xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Lê Quang H, địa chỉ: Đ2, thôn P, xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn ngày 14/10/2019, bản tự khai và biên bản hòa giải ngày 31/10/2019 cũng như tại phiên toà, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H đều trình bày: Chị và anh H trước đây yêu nhau và kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình vào ngày 12/7/2013. Sau kết hôn, vợ chồng về ở cùng bố mẹ anh H, do tính tình vợ chồng không hợp nhau nên không ai góp ý cho ai được. Anh H thờ ơ với gia đình vợ con, không chịu khó làm ăn xây dựng hạnh phúc gia đình, mà thường xuyên theo bạn bè rượu trà say sưa, chị đã nhiều lần vận động, khuyên can, góp ý để anh H chú tâm làm ăn, xây dựng gia đình và chăm lo con cái nhưng anh H không thay đổi mà tình hình ngày càng tồi tệ hơn nên chị đã về nhà bố mẹ đẻ chị sống từ tháng 10/2016 cho đến nay. Chị xác định tình cảm giữa chị và anh H thực sự đã hết. Để đảm bảo cuộc sống yên ổn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

Bị đơn anh Lê Quang H vắng mặt tại phiên tòa nhưng anh trình bày qua bản tự khai và biên bản hòa giải ngày 31/10/2019, về quá trình tìm hiểu và kết hôn đúng như chị H trình bày; Sau kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc bình thường không có mâu thuẫn gì lớn, chỉ có xích mích giữa mẹ anh và chị H không đáng kể, mặc dù anh đã góp ý nhưng chị H không thay đổi. Anh xác định tình cảm giữa anh và chị H vẫn còn, anh không nhất trí ly hôn mà xin được đoàn tụ để cùng nhau nuôi con.

Con chung: Vợ, chồng có 01 con chung Lê Nguyễn Diễm M, sinh ngày 26/5/2014. Chị H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con, trước đây chị yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng nhưng tại phiên tòa chị yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng. Anh H vắng mặt tại phiên tòa nhưng qua hòa giải, anh không nhất trí ly hôn và không có ý kiến gì về con.

Về tài sản chung: Chị H, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, kết quả hỏi và tranh luận tại phiên tòa;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bị đơn anh Lê Quang H đã được Tòa án tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập và quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Lê Quang H đăng ký kết hôn với nhau ngày 12/7/2013 tại UBND xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng bắt đầu sống chung đã xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh H thiếu quan tâm xây dựng hạnh phúc gia đình, thể hiện qua việc không chú tâm làm ăn, không chăm sóc vợ con mà thường xuyên theo bạn bè ăn nhậu theo sở thích, bỏ bê công việc dẫn đến vợ chồng thường xuyên lục đục, gây gổ nhau. Nhiều lần chị H cũng như gia đình hai bên góp ý và mong rằng anh H thay đổi để cuộc sống gia đình được yên ấm nhưng không có kết quả. Tòa án đã tổ chức hòa giải nhiều lần nhưng anh H chỉ có mặt được một lần và trình bày không muốn ly hôn vì con cái. Tòa án đã tạo điều kiện về mặt thời gian để anh H có cơ hội níu kéo, cải thiện quan hệ hôn nhân nhưng anh H không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Phiên hòa giải tiếp theo, anh H vẫn vắng mặt, kể cả phiên tòa lần thứ hai đã được Tòa án tống đạt giấy triệu tập hợp lệ, qua đó, chứng tỏ anh H trình bày quan điểm muốn vợ chồng đoàn tụ nhưng không có thiện chí và không hợp tác hòa giải, thể hiện không quan tâm việc bảo vệ hạnh phúc gia đình, không tha thiết hàn gắn tình cảm với chị H nữa.

Xét thấy, tình trạng vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần xử cho hai bên ly hôn nhau là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về con chung: Chị H, anh H có một con chung: Chị H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con, yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng. Anh H vắng mặt nên không thể hiện ý chí, nguyện vọng, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu của chị H giao con cho chị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, buộc anh H cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là phù hợp với các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3].Tài sản chung: Chị H, anh H không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. sự;

[2.4].Về án phí: Chị H, anh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân

QUYẾT ĐỊNH

1. Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình: Xử cho chị Nguyễn Thị H và anh Lê Quang H được ly hôn nhau.

2. Về con chung: Áp dụng các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: Xử giao cho chị Nguyễn Thị H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Lê Nguyễn Diễm M, sinh ngày 26/5/2014 , buộc anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng, kể từ tháng 02/2020 cho đến khi con tròn 18 tuổi. Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp theo biên lai số: 0005883 ngày 14/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ. Chị H đã nộp đủ án phí. Anh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm của người có nghĩa vụ cấp dưỡng 300.000 đồng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Chị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 14/02/2020, anh H được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2020/HNGĐ-ST ngày 14/02/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:04/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về