Bản án 04/2019/HS-ST ngày 26/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 04/2019/HS-ST NGÀY 26/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 08/2019/HSST ngày 05 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2019/QĐXXST-HS ngày 14/3/2019 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Thế A; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1994, tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT: tổ 5, phường Q, thành phố C, tỉnh Lai Châu; chỗ ở trước khi bị bắt: Tổ 18, phường P, thành phố C, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Hữu L (sinh năm 1966) và con bà Bùi Thị H (sinh năm 1973); Vợ, con: chưa có; Tiền sự: Không; Tiền án: có 01 tiền án, theo bản án số 35/2017/HSST ngày 26/6/2017 của TAND tỉnh Lai Châu xử phạt Nguyễn Thế A11 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 1 Điều 245/BLHS. Ngày 28/8/2017 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, đến lần phạm tội này chưa được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/11/2018 đến ngày 04/12/2018 bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nộ i dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 25/11/2018, Tổ công tác Công an phườngTân Phong tiến hành kiểm tra lưu trú  đối với Nguyễn Thế A người thuê nhà số057, đường P thuộc tổ 18,  phường P, thành phố C, tỉnh Lai Châu. Quá trình kiểm tra Nguyễn Thế A tự khai là người nghiện ma túy và tự lấy trong túi áo khoác màu đen mặt trong có chữ UNI QLO đang treo trong phòng ngủ ra 01 túi nilon có miệng khóa Zip, trên túi có chữ CLASS MATE màu đen, bên trong túi có 04 túi nilon: Túi thứ nhất màu trắng, miệng túi có viền đỏ bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; Trong túi nilon thứ hai màu trắng, miệng túi có viền xanh bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; Trong túi nilon thứ ba màu trắng chứa chất tinh thể màu trắng; Túi nilon thứ tư màu trắng miệng túi có viền màu đỏ bên trong là 09 túi nilon màu trắng miệng túi có viền xanh đều chứa chất tinh thể màu trắng. Nguyễn Thế A khai nhận 12 túi có chất tinh thể màu trắng mà mình tự giao nộp là ma túy đá. Thế A tàng trữ để sử dụng cho bản thân.

Khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày Công an phường Tân Phong đã chuyển toàn bộ vụ án đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu.

Ngày 25/11/2018 Cơ quan điều tra tiến hành cân tịnh khối lượng 12 gói chất tinh thể màu trắng thu giữ của Thế A có tổng khối lượng là 14,59 gam đồng thời trích mẫu (ký hiệu từ M1 đến M12) để gửi giám định.

Quá trình điều tra Nguyễn Thế A thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Các vấn đề khác của vụ án:

Về nguồn gốc số ma túy đá mà Thế A giao nộp cho cơ quan điều tra, tại cơquan điều tra và tại phiên tòa Thế  A khai:

Ngày 23/11/2018 tại trước nhà nghỉ Thủy Tiên, thuộc tổ 9, phường Tân Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, Thế A gặp và mua của Mai Trọng D (sinh năm 1984, ở gần Chợ San Thàng, thành phố Lai Châu,tỉnh Lai Châu) 2,5 gam ma túy đá hết 2.500.000đồng. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh hiện đối tượng không có mặt trên địa bàn, đi đâu, làm gì chính quyền địa phương không biết nên không đủ căn cứ xác minh làm rõ hành vi của D.

Ngày 24/11/2018 tại khu vực đường Trần Phú, phường Tân Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, Thế A đã gặp và mua của một người đàn ông tên T 14 gam ma túy đá với giá 9.400.000đồng. Thế A không biết nhân thân, lai lịch của T nên cơ quan điều tra không đủ căn cứ làm rõ.

Theo Kết luận giám định số 16/GĐ – KTHS ngày 30/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: mẫu tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Thế A (ký hiệu M1 đến M12) gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine.

Bản cáo trạng số 07/CT - VKSTP ngày 04/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu đã truy tố Nguyễn Thế A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận và bản cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự, điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự,xử phạt bị cáo Nguyễn Thế A từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù về tội “Tàng trữ trái  phép chất ma túy”. 

Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Xử lý vật chứng: đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 3,78 gam methamphetamine; 14 túi nilon (01 túi  có khóa zip, tren túi có in chữ CLASS MATE màu đen; 01 túi nilon màu trắng; 02 túi nilon màu trắng miệng túi có viền đỏ; 10 túi nilon màu trắng miệng túi có viền xanh); Trả lại cho bị cáo 01 chiếc áo khoác màu đen mặt trong có dòng chữ UNI QLO là tài sản hợp pháp của bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Thế A không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu.

Tại lời nói sau cùng bị cáo Nguyễn Thế A thể hiện việc nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 25/11/2018, tại số nhà 057, đường P thuộc tổ 18, phường P, thành phố C, tỉnh Lai Châu, Nguyễn Thế A đã tự thú và giao nộp cho tổ công tác của Công an phường Tân Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu 14,59 gam Methamphetamine mà Thế A tàng trữ trái phép với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra tự thú và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo Nguyễn Thế A là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Ý thức được điều đó nhưng để thỏa mãn nhu cầu nghiện hút của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Nguyễn Thế A cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự

Vì vậy, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo Thế A có nhân thân xấu, trước lần phạm tội này bị cáo đã có tiền án, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội.

Bị cáo đã tự thú về hành vi phạm tội của mình, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, bị cáo có ông là Nguyễn Hữu Q được Chính phủ Việt Nam Dân Chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Thế A thực hiện hành vi phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: là 3,78 gam Methamphetamine còn lại sau giám định (trong đó 1,77gam methamphetamine được gói 02 lớp, lớp trong là nilon màu trắng, lớp ngoài là mảnh giấy màu trắng ký hiệu gói 1 và 2,01 gam methamphetamine được gói 02 lớp, lớp trong là nilon màu trắng, lớp ngoài là mảnh giấy màu trắng ký hiệu gói 2) là vật nhà nước cấm lưu hành; 14 túi nilon (01 túi có khóa zip, trên túi có in chữ CLASS MATE màu đen; 01 túi nilon màu trắng; 02 túi nilon màu trắng miệng túi có viền đỏ; 10 túi nilon màu trắng miệng túi có viền xanh) là vật chứng không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Trả lại cho bị cáo 01 chiếc áo khoác màu đen mặt trong có dòng chữ UNI QLO là tài sản hợp pháp của bị cáo theo khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về các vấn đề khác:

Đối với hai người đàn ông bán ma túy cho Thế A, cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh, làm rõ, nên Hội đồng xét xử không có căn cứ xem xét trong cùng vụ án này.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự, điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy  ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế A 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/11/2018.

3. Về vật chứng của vụ án:

- Tịch thu, tiêu hủy: 1,77gam methamphetamine được gói 02 lớp, lớp trong là nilon màu trắng, lớp ngoài là mảnh giấy màu trắng ký hiệu gói 1 và 2,01 gam methamphetamine được gói 02 lớp, lớp trong là nilon màu trắng, lớp ngoài là mảnh giấy màu trắng ký hiệu gói 2; 14 túi nilon (01 túi có khóa zip, trên túi có in chữ CLASS MATE màu đen; 01 túi nilon màu trắng; 02 túi nilon màu trắng miệng túi có viền đỏ; 10 túi nilon màu trắng miệng túi có viền xanh);

- Trả lại cho bị cáo 01 chiếc áo khoác màu đen mặt trong có dòng chữ UNI QLO (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 16 giờ 25 phút ngày 05/3/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu với Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Lai Châu).

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HS-ST ngày 26/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về