Bản án 04/2019/HSST ngày 24/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 04/2019/HSST NGÀY 24/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 24 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2019/HSST ngày 10 tháng 01 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2019/QĐXXST - HS ngày 11 tháng 01 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn L, sinh năm 1991; HKTT: Thôn H, xã N, huyện Q, tỉnh B; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Học vấn 11/12; Dân tộc: Kinh; Con ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1956 và con bà Hà Thị N, sinh năm 1957; Vợ là Bùi Thị D, sinh năm 1995 và 03 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/10/2018 đến ngày 25/10/2018 được thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 16/10/2018, L đang làm phu hồ tại khu vực vườn dứa nhà chị Đỗ Thị G ở cùng thôn thì có Nguyễn Đình H là bạn cùng thôn đi xe máy đến, H nói với L: “Có đi lên kia không?” (ý nói là đi mua ma túy về sử dụng), L đồng ý. Sau đó, H điều khiển xe mô tô đi về nhà còn L tiếp tục làm việc.

Khoảng 30 phút sau, H gọi điện cho L nói:” Lên cây xăng Nam Phong, tao đang ở đây rồi”. L điều khiển xe mô tô hiệu QUICKNEW WAVE BKS: 99F4 - 5860 của gia đình từ chỗ làm lên cây xăng Nam Phong thuộc thôn Từ Phong, xã Cách Bi để mua ma túy. Khi đến nơi, L không thấy H ở đó, L gặp một người đàn ông không quen biết khoảng 40 tuổi đang đứng ở gần nhà vệ sinh của cây xăng, L điều khiển xe mô tô đến gần thì người đàn ông đi vào nhà vệ sinh. L dựng xe mô tô trước nhà vệ sinh rồi đi vào nhà vệ sinh để gặp người đàn ông và hỏi: “Có bán ma túy không?”, người đàn ông nói: “Có”. L đưa cho người đàn ông 100.000đồng, người đàn ông cầm tiền và đưa cho L 01 gói giấy bạc mầu trắng, L biết đó là ma túy cần mua nên cầm ở tay phải, còn người đàn ông đi đâu, L không biết.

Sau khi mua được ma túy, L ra lấy xe mô tô đi tìm nơi sử dụng thì bị công an tỉnh Bắc Ninh phối hợp với công an huyện Quế Võ và công an xã Cách Bi bắt quả tang, L đã thả gói ma túy vừa mua được xuống nền đất cách chỗ L bị bắt khoảng 20cm. Tổ công tác đã tiến hành lâph biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và niêm phong theo quy định.

Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ mặt nền đất tại sân cây xăng Nam Phong 01 gói giấy bạc mầu trắng bên trong chứa chất bột mầu trắng do L vứt ra khi bị bắt quả tang; 01 xe xe mô tô hiệu QUICKNEW WAVE BKS: 99F4 - 5860 mầu nâu; 01 điện thoại Nokia 2300 mầu ghi đã qua sử dụng.

Tại bản Kết luận giám định số 1053/KLGĐMT-PC54 ngày 16/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “Chất bột mầu trắng bên trong 01 gói giấy bạc một mặt mầu trắng một mặt mầu vàng có khối lượng 0,3312 gam, Là ma túy: Loại ma túy: Heroine”.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy vào sáng ngày 16/10/2018.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 09/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố Nguyễn Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ phân tích lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang và toàn bộ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Nguyễn Văn L từ 15 đến 20 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi thành án nH được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 16/10/2018 đến ngày 25/10/2018. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được đựng trong phong bì có dấu niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bắc Ninh.

Bị cáo nhận tội không tham gia tranh luận đối với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt;

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Hồi 9 giờ ngày 16/10/2018, tại khu vực cây xăng Nam Phong thuộc thôn Từ Phong, xã Cách Bi, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, công an tỉnh Bắc Ninh phối hợp với công an huyện Quế Võ và công an xã Cách Bi đã bắt quả tang Nguyễn Văn L đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,3312 gam Heroine trên người nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, biên bản phạm pháp quả tang và vật chứng đã được thu hồi. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận hành vi của Nguyễn Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy. Bởi lẽ chất ma túy không đơn thuần chỉ là chất gây nghiện mà còn là nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm khác, làm mất trật tự trị an địa phương, phá vỡ hạnh phúc gia đình và làm thiệt hại đến kinh tế và sức khỏe bản thân, làm băng hoại đạo đức con người, suy giảm giống nòi.

Trong khi Đảng và Nhà nước ta đang ra sức bài trừ tệ nạn ma túy thông qua các chương trình, mục tiêu quốc gia phòng chống các tội phạm về ma túy thì bị cáo lại cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nH vẫn thực hiện nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Do vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và giúp bị cáo từ bỏ ma túy.

Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu; tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, khi lượng hình hội đồng xét xử cũng cần xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Ngoài hình phạt chính điều luật còn quy định có thể áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Song xét thấy, bị cáo là người nghiện ma tuý, tuổi còn trẻ, không có công việc ổn định, bị cáo có 03 con nhỏ cần nuôi dưỡng và chăm sóc nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Đối với người đàn ông khoảng 40 tuổi là người đã bán ma túy cho L, L không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu. Cơ quan Công an huyện Quế Võ tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau.

Đối với Nguyễn Đình H theo L khai là người đã chủ động rủ L đi mua ma túy về sử dụng. Quá trình điều tra, H không thừa nhận đã rủ L đi mua ma túy về cùng sử dụng. Cơ quan Công an huyện Quế Võ tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ được sẽ đề nghị xử lý sau.

Đối với chiếc xe mô tô hiệu QUICKNEW WAVE BKS: 99F4 - 5860 mà L dùng làm phương tiện để đi mua ma túy, quá trình điều tra xác định chiếc xe máy là của ông Nguyễn Thế Dũng (bác vợ của L) cho L mượn để làm phương tiện đi làm. Đối với chiếc điện thoại Nokia 2300 L sử dụng để liên lạc với H, quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại này của chị Bùi Thị Dung (vợ L). Ông Dũng và chị Dung đều không biết việc L sử dụng các phương tiện này để liên lạc và đi mua ma túy nên ngày 24/12/2018, Công an huyện Quế Võ đã trả lại tài sản cho ông Dũng và chị Dung là phù hợp.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.

Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Xử phạt: Nguyễn Văn L 16 (Mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nH được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 16/10/2018 đến ngày 25/10/2018.

Vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu huỷ mẫu vật còn lại sau giám định được đựng trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/01/2019 giữa Công an huyện Quế Võ với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh).

Án phí: Bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HSST ngày 24/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:04/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về