Bản án 04/2019/HS-ST ngày 18/01/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 04/2019/HS-ST NGÀY 18/01/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 18 tháng 01 năm 2019 tại Hội trường xét xử A - Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 84/2018/HSST ngày 07 tháng 12 năm 2018, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2019/HSST ngày 07 tháng 01 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn C - sinh ngày: 26/11/1984 tại Hải Dương; HKTT: Ấp 8, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai, Chỗ ở: Ấp L, xã B, TX.L, tỉnh Đồng Nai ; Chứng minh nhân dân số: 271577198, cấp ngày 11/03/2017, nơi cấp: Công an Đồng Nai; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn T, sinh năm: 1957 và bà: Đặng Thị L, sinh năm: 1960; có vợ: Đặng Thị Kim C, sinh năm: 1991 và 03 con, lớn nhất sinh năm: 2010, nhỏ nhất sinh năm: 2014; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 30/12/2003 bị Tòa án nhân dân tp.B, tỉnh Đồng Nai xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/5/2006. Bị cáo bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an huyện Thống Nhất từ ngày: 12/10/2018. (có mặt)

* Người bị hại:

1. Anh Nguyễn Tấn T (đã chết)

Đại diện hợp pháp của người bị hại:

Ông Nguyễn Văn P sinh năm: 1949 (cha anh T)

Nguyễn Thị T sinh năm: 1951 (mẹ anh T)

Cùng trú: Ấp L, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

Đại diện theo ủy quyền của ông Phong:

Nguyễn Thị T sinh năm: 1951

Nơi cư trú: Ấp L, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (Văn bản ủy quyền ngày 31/10/2018) (vắng mặt)

 2. Anh Nguyễn Minh C sinh năm: 1997

Nơi cư trú: Ấp L, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

* Bị đơn dân sự:

Anh Trịnh Văn V sinh năm: 1987

Nơi cư trú: Ấp B, xã B, thị xã L, tỉnh Đồng Nai. (có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Trần Văn K sinh năm: 1983

Nơi cư trú: Tổ 28, khu phố 4, phường T, tp.B, tỉnh Đồng Nai. (có mặt)

* Người làm chứng:

Anh Trịnh Văn Đ sinh năm: 1987

Nơi cư trú: Ấp B, xã B,thị xã L, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào sáng ngày 12/10/2018, Trần Văn C có giấy phép lái xe ô tô hạng C theo quy định, điều khiển xe ô tô tải có tải trọng 8,400kg biển số 60C-230.17 lưu thông trên quốc lộ 1A theo hướng từ L về B. Đến khoảng 03 giờ 05 phút cùng ngày, khi đi đến km 1834+950, Quốc lộ 1A thuộc ấp H, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai, bên trái đường là trạm xăng dầu H, có 01 xe ô tô tải (không rõ biển số và người điều khiển đang chạy trong trạm xăng dầu ra quốc lộ 1A và chuyển hướng sang trái đường về hướng B. Trần Văn C bật đèn tín hiệu bên trái và điều khiển xe ô tô biển số 60C- 230.17 chuyển hướng sang bên trái đường vào trạm xăng dầu H. Cùng lúc có 01 xe mô tô biển số 60X3-2114 có dung tích xi lanh 97cm3 do anh Nguyễn Tấn T (anh T có giấy phép lái xe mô tô hạng A1) điều khiển chở anh Nguyễn Minh C ngồi sau lưu thông theo hướng từ T về D đến. Do Trần Văn C điều khiển xe ô tô biển số 60C- 230.17 chuyển hướng sang trái đường sai quy định, gặp xe ô tô tải chạy trong trạm xăng dầu ra che khuất tầm nhìn, khi phát hiện xe mô tô do anh T đi đến ở khoảng cách gần thì Trần Văn C đạp thắng xe ô tô nhưng không kịp, phía trước bên trái đầu xe ô tô biển số 60C-230.17 do Trần Văn C điều khiển và đụng vào đầu xe mô tô do anh T điều khiển trên phần đường dành cho xe mô tô hướng từ B về L, làm cho xe mô tô 60X3-2114 anh Tri và anh C ngã vào lề phải đường. Hậu quả: anh Nguyễn Tấn T chết trên đường đi cấp cứu, anh Nguyễn Minh C bị thương.

Kết quả khám nghiệm xác định hiện trường sau tai nạn như sau:

Vụ tai nạn giao thông xảy ra trên đoạn đường thẳng, mặt đường trải bê tông nhựa rộng 16m, đường hai chiều ở giữa là dải phân cách cứng bằng bê tông. Mỗi chiều đường có 02 làn xe chạy phân biệt bằng vạch sơn kẻ đường không liền nét. Đoàn đường xảy ra tai nạn là đoạn đường có dải phân cách mở để cho các phương tiện giao thông chuyển hướng và quay đầu xe. Đường có đèn chiếu sáng đang hoạt động.

Lấy hướng từ B làm hướng chuẩn để mô tả hiện trường; lấy mép lề phải đường làm chuẩn để đo vẽ hiện trường, lấy điểm nhô ra cao nhất của cột điện số 133 nằm trong lề phải đường làm điểm chuẩn, hiện trường được xác định như sau:

- Vết phanh 1 được ký hiệu là (1) dài là 10m50; đầu vết hướng L rộng 00m50 đo đến lề phải đường là 06m20, đầu vết hướng T rộng 00m20 do đến lề phải đường là 01m70. Đoạn vết phanh rộng 00m50 có độ dài là 04m40.

- Vết phanh 2 được ký hiệu là (2) dài là 10m10 song song với vết phanh 1; đầu vết hướng Long Khánh rộng 00m50 đo đến lề phải đường là 04m30 và đo đến đầu vết phanh 1 hướng L là 01m90; đầu vết hướng T rộng 00m20 nằm tiếp giám với lề đường bên phải, từ tâm đầu vết đo đến vết phanh 1 hướng T là 01m90 và đo đến đầu vết cày là 01m30.

- Vết cày được ký hiệu là (3) dài 02m50 nằm trên lề phải đường; tâm đầu vết tiếp giáp với mép lề phải đường, cuối vết cày nằm tại điểm tiếp giáp giữa đầu gác chân trước bên phải xe mô tô biển số 60X3-2114 với mặt nền bê tông trong lề phải đường.

- Xe mô tô biển số 60X3-2114 ký hiệu là (4) sau tai nạn nằm ngã về bên phải, đầu xe quay về hướng L, đuôi xe quay về hướng T, tâm trục bánh sau đo đến lề phải đường là 01m30 và đo đến tâm đầu vết phanh 2 hướng T là 01 m80; tâm trục bánh trước đo đến lề phải đường là 03m00 và đo đến tâm trục bánh sau bên trái xe ô tô 60C-230.17 là 10m40.

- Xe ô tô biển số 60C-230.17 ký hiệu là (5) sau tai nạn dừng lại trên lề phải đường, đầu xe quay về hướng T đuôi xe quay về hướng L, tâm trục bánh trước bên phải đo đến lề phải đường là 05m70; tâm trục bánh sau bên phải đo đến lề phải đường là 04m20.

- Từ điểm chuẩn đo đến trục bánh trước bên phải xe ô tô biển số 60C-230.17 là 04m60 và đo đến tâm trục bánh sau bên trái xe ô tô biển số 60C-230.17 là 03m22.

Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về từ thi số 614/PC 54-KLGĐPY ngày 20/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Anh Nguyễn Tấn T chết:

1. Dấu hiệu chính:

Nhiều vết xây xát, trầy rách da đầu vùng trán, mặt bên trái, tràn khí dưới da vùng ngực trái; nhiều vết xây sát, rách da và gãy xương cẳng chân trái. Gãy xương đòn phải, gãy xương sườn hai bên, rách cơ tim cách nhĩ hai bên, rách thùy trên phổi trái.

Nguyên nhân tử vong: Chấn thương ngực bụng kín, gãy xương đòn phải, gãy xương sườn hai bên, vỡ tim, rạn vỡ gan thùy trái, gãy xương cẳng chân trái.

Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0906/TgT/2018 ngày 19/11/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai kết luận: Anh Nguyễn Minh C bị thương:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Tổn thương vỡ xoang hàm hai bên không dị lệch (áp dụng chương 13, điều II, mục 6,1) tỷ lệ 15%.

- Tổn thương gãy cung tiếp trái không ảnh hưởng chức năng (áp dụng chương 12, điều I, mục 1) tỷ lệ 10%.

- Tổn thương gãy ngành lên xương hàm dưới bên trái không ảnh hưởng chức năng (áp dụng chương 12, điều I, mục 1) tỷ lệ 10%.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể (áp dụng theo phương pháp cộng lùi) do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 31%

Căn cứ kết luận giám định số 281/TTĐKXCG ngày 21/11/2018 của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới thuộc Sở Giao thông vận tải tỉnh Đồng Nai kết luận: Tốc độ trung bình phương tiện đối với xe ô tô 60C-230.17 tại thời điểm cách điểm va chạm trong khoảng 10-20m là 38.3km/h.

Căn cứ kết luận giám định số 277a/TTĐKXCG ngày 19/11/2018 của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới thuộc Sở Giao thông vận tải tỉnh Đồng Nai kết luận: Tốc độ trung bình phương tiện đối với xe mô tô 60X3-2114 tại thời điểm cách điểm va chạm trong khoảng 10-20m là 55.53 km/h.

Bản cáo trạng số 05/CT.VKS-HS ngày 07-12-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Trần Văn C về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Trần Văn C từ 01 năm đến 01 năm 02 tháng tù.

* Về vật chứng vụ án:

- 01 Giấy phép lái xe số 750099014355, hạng C do Sở Giao thông vận tải Đồng Nai cấp ngày 10/11/2016 cho Trần Văn C, đề nghị trả lại cho bị cáo.

- 01 USB hiệu Toshiba 4GB bên trong chứa dữ liệu 01 đoạn vi deo có định dạng MP4, kích thước 4,985kb (đã được niêm phong) quay lại diễn biến vụ tại nạn giao thông giữa xe mô tô 60X3-2114 với xe ô tô biển số 60C-230.17 cần phải lưu giữ trong hồ sơ vụ án để xử lý theo quy định của pháp luật.

- 01 xe ô tô biển số 60C-230.17 có giấy tờ hợp pháp, là tài sản của anh Trịnh Văn V. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất đã trao trả xe cùng toàn bộ giấy tờ xe có liên quan cho chủ sở hữu nên không xem xét.

- 01 xe mô tô biển số 60X3-2114 có giấy tờ hợp pháp, là tài sản của bà Nguyễn Thị T. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất đã trao trả xe cùng toàn bộ giấy tờ xe có liên quan cho đại diện chủ sở hữu nên không xem xét.

Về trách nhiệm dân sự: Các anh Trịnh Văn V và Trần Văn Kh đã bồi thường chi phí mai táng, tổn thất tinh thần và các chi phí khác cho gia đình anh Nguyễn Tấn T với tổng số tiền 200.000.000 đồng; bồi thường chi phí chữa trị thương tích và các chi phí khác cho anh Nguyễn Minh C với tổng số tiền 70.000.000 đồng. Bà Nguyễn Thị T, anh Nguyễn Minh C đã nhận tiền, bãi nại trách nhiệm dân sự, xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Trần Văn C và chủ sở hữu xe ô tô biển số 60C- 230.17.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xử phạt mức án nhẹ để bị cáo sớm về gia đình, chăm sóc các con còn nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thống Nhất, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp người bị hại, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng số 05/CT.VKS-HS ngày 07/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất đã truy tố, đủ cơ sở kết luận:

Vào sáng ngày 12/10/2018, Trần Văn C có giấy phép lái xe ô tô hạng C theo quy định, điều khiển xe ô tô tải biển số 60C-230.17 lưu thông trên quốc lộ 1A theo hướng từ L về B. Đến khoảng 03 giờ 05 phút cùng ngày, khi đi đến km 1834+950, Quốc lộ 1A thuộc ấp H, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai, Trần Văn C bật đèn tín hiệu bên trái và điều khiển xe ô tô biển số 60C-230.17 chuyển hướng sang bên trái đường vào trạm xăng dầu H nhưng không quan sát kỹ mặt đường, không nhường đường cho xe hướng ngược chiều đến nên đã gây tai nạn cho xe mô tô biển số 60X3-2114 do anh Nguyễn Tấn T điều khiển chở anh Nguyễn Minh C ngồi sau lưu thông theo hướng từ T về D. Hậu quả: anh Nguyễn Tấn T chết trên đường đi cấp cứu, anh Nguyễn Minh C bị thương tật với tỷ lệ thương tích 31%; xe mô tô và ô tô bị hư hỏng. Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất truy tố bị cáo Trần Văn C về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ chính xác, đúng quy định pháp luật.

Xét về lỗi: Lỗi của bị cáo điều khiển xe chuyển hướng thiếu quan sát không nhường đường xe đi ngược chiều là nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông. Vụ tai nạn giao thông xảy ra lỗi hoàn toàn do bị cáo.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chấp hành các quy tắc an toàn giao thông đường bộ, xâm phạm đến trật tự giao thông công cộng, gây tổn thất đến tính mạng, sức khỏe của người tham gia giao thông. Cần có mức án đủ nghiêm, tương xứng với hành vi của bị cáo gây ra nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo chấp hành nghiêm pháp luật và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Xét nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại, sau tai nạn ra đầu thú, người bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại đã bãi nại trách nhiệm dân sự và hình sự cho bị cáo là các tình tiết giảm nhẹ khi lượng hình.

[5] Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng;

- 01 Giấy phép lái xe số 750099014355, hạng C do Sở Giao thông vận tải Đồng Nai cấp ngày 10/11/2016 cho Trần Văn C. Trả lại cho bị cáo.

- 01 USB hiệu Toshiba 4GB bên trong chứa dữ liệu 01 đoạn video có định dạng MP4, kích thước 4,985kb (đã được niêm phong) quay lại diễn biến vụ tại nạn giao thông giữa xe mô tô 60X3-2114 với xe ô tô biển số 60C-230.17 cần tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong nên không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 - Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Trần Văn C phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” Xử phạt: Bị cáo Trần Văn C 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/10/2018.

* Về vật chứng: Căn cứ khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trả lại 01 Giấy phép lái xe số 750099014355, hạng C do Sở Giao thông vận tải Đồng Nai cấp ngày 10/11/2016 cho Trần Văn C.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Tòa án huyện Thống nhất theo biên bản giao nhận ngày 07/12/2018) Tiếp tục lưu giữ 01 USB hiệu Toshiba 4GB bên trong chứa dữ liệu 01 đoạn video có định dạng MP4, kích thước 4,985kb (đã được niêm phong) quay lại diễn biến vụ tại nạn giao thông giữa xe mô tô 60X3-2114 với xe ô tô biển số 60C-230.17 trong hồ sơ vụ án.

* Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

Báo cho bị cáo, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại, đại diện hợp pháp người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HS-ST ngày 18/01/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:04/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về