Bản án 04/2019/HS-ST ngày 18/01/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 04/2019/HS-ST NGÀY 18/01/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 18 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở UBND xã Tiêu Sơn, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2019/TLST-HS, ngày 08 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2019/QĐXXST-HS, ngày 08 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Bùi Thị B, sinh ngày 02/01/1974; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Khu hành chính H, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Đảng phái: Không; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn H (đã chết) và bà Vũ Thị G, sinh năm 1956; Có chồng là Nguyễn Văn B, sinh năm 1966 (đã ly hôn), Lê Hải D, sinh năm 1977 (đã ly hôn) và 04 con (con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 2013);

- Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/11/2018 đến ngày 21/11/2018 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ. Có mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Công ty S

Địa chỉ: Số x, phường y, quận z, thành phố Hồ Chí Minh

Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Đình Đ, Chức vụ: Phó tổng giám đốc. Vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 16 giờ 30 phút, ngày 15/11/2018, tại thôn 01, xã S, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu thuộc Công an tỉnh Phú Thọ kiểm tra, phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Bùi Thị B, sinh năm 1974 ở khu hành chính H, thị trấn Đ, huyện Đoan Hùng đang có hành vi vận chuyển pháo. Thu giữ của B 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh lắp sim số 0964.423.xxx, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J3, 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead màu đỏ, đã cũ biển số 19E1-296.xx, 03 bánh pháo tép được quấn tròn có đường kính 35cm (có đặc điểm là các vật hình trụ vỏ giấy màu đỏ, đầu mỗi vật có gắn dây ngòi, được liên kết với nhau thành tràng), 03 hộp dàn pháo hoa phụt có kích thước 15x15x15cm (vỏ bằng giấy màu, bên trong mỗi hộp có 36 hộp hình trụ, vỏ giấy được liên kết với nhau) và 100 quả pháo trứng (đều hình bóng đèn điện tròn, vỏ ngoài bọc giấy màu, một đầu mỗi vật có gắn dây ngòi màu xanh), tổng khối lượng là 12,5 kg. Toàn bộ số pháo trên đều được niêm phong, gửi đi giám định.

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Phú Thọ tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Bùi Thị B nhưng không phát hiện, thu giữ gì.

Ngày 16/11/2018, Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Phú Thọ ra quyết định trưng cầu giám định số pháo thu giữ của B. Tại bản Kết luận giám định số 6410/C09-P2 ngày 16/11/2018 của Viện Khoa học Hình sự - Bộ Công an kết luận:

“ Các vật hình trụ vỏ giấy màu đỏ liên kết với nhau thành tràng (03 tràng) là pháo nổ. Khối lượng 4,3kg (bốn phẩy ba kilôgam);

03 khối hộp bên trong mỗi khối hộp có 36 vật hình trụ được liên kết với nhau đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ). Khối lượng là 4,2kg (bốn phẩy hai kilôgam);

Các vật hình bóng đèn điện tròn một đầu mỗi vật có gắn dây ngòi màu xanh đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ). Khối lượng là 04kg (bốn kilôgam);

Tổng khối lượng số pháo trên là 12,5kg (mười hai phẩy năm kilôgam).”

Qúa trình điều tra làm rõ như sau:

Thông qua mạng xã hội Facebook, Bùi Thị B quen biết người nam giới tên T khoảng gần 50 tuổi nhà ở huyện L, tỉnh Phú Thọ. Đầu tháng 11/2018, T gọi điện từ số điện thoại 0969.251.xxx đến số 0964.423.xxx của B để nhờ B mua pháo hộ, B đồng ý. Ngày 15/11/2018, B một mình điều khiển xe mô tô biển số 19E1-296.xx đến thành phố T, tỉnh Tuyên Quang mua 5.200.000 đồng (Năm triệu hai trăm nghìn đồng) tiền pháo được 03 dàn pháo hoa nổ, 100 quả pháo trứng và 03 bánh pháo tép. Mua được pháo, B cất 03 hộp pháo hoa nổ vào cốp xe, số pháo còn lại B cất ở chỗ để chân của xe mô tô rồi gọi điện thông báo cho T là đã mua được pháo và số tiền mua pháo là 5.200.000 đồng. Sau đó, B điều khiển xe mô tô mang số pháo trên đi dọc Quốc lộ 2 theo hướng Tuyên Quang - Việt Trì để đưa pháo cho T.

Khi B đi đến thôn 1, xã S, huyện DD thì bị Công an tỉnh Phú Thọ kiểm tra, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 08/CT-VKS ngày 07/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ đã truy tố bị cáo Bùi Thị B về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Thị B phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191, các điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Thị B từ 55.000.000đ đến 60.000.000đ. Không áp dụng hình phạt bổ sung.

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều Điều 47 của Bộ luật hình sự, khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đã cũ.

- Tiêu hủy 02 thùng pháo được đựng trong 02 thùng niêm phong của Viện Khoa học hình sự - Bộ công an gửi trả, hiện được lưu giữ tại Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Phú Thọ và 01 sim điện thoại di động số 0964.423.xxx.

- Trả lại cho bị cáo 01 xe máy Honda Lead biển kiểm soát 19E1 – 296.xx và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy J3 đã cũ;

Tại phiên tòa bị cáo Bùi Thị B không tranh luận gì, thừa nhận và ăn năn hối hận với hành vi phạm tội của bản thân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng hình sự: Các quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, hành vi tố tụng của điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát và hành vi tố tụng của Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố là đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về căn cứ buộc tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ, nên có đủ cơ sở để kết luận:

Khong 16 giờ 30 phút ngày 15/11/2018, tại thôn 01, xã S, huyện DD, tỉnh Phú Thọ, Bùi Thị B đã có hành vi vận chuyển 12,5kg pháo nổ. Hành vi vận chuyển pháo nổ của bị cáo không chỉ là một trong những loại hàng cấm đầu tư, kinh doanh theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 6 Luật đầu tư số 67/2014/QH13 mà đã phạm vào tội “Vận chuyển hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 191 Bộ luật hình sự. Điều 191 của Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

c, Pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam”.

[3]. Về tính chất của hành vi phạm tội: Tuy vụ án có tính chất ít nghiêm trọng, nhưng hành vi vận chuyển pháo nổ của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước, nhất là trong dịp tết Nguyên đán này, việc vận chuyển, sử dụng pháo nổ không chỉ gây ra những thiệt hại về vật chất mà còn có thể gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của con người. Do vậy các cơ quan tiến hành tố tụng đã xác định chọn vụ án này là vụ án trọng điểm đưa đi xét xử lưu động, không chỉ để giáo dục riêng đối với bị cáo mà còn tuyên truyền pháp luật và phòng ngừa chung tội phạm.

[4]. Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

[5]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội lần đầu. Bố đẻ của bị cáo là người có công với nhà nước, được tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì. Do vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, trên cơ sở phục vụ công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, để nhằm giáo dục, giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành người công dân có ích cho xã hội, nên xử hình phạt tiền ở mức khởi điểm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[6]. Về xử lý vật chứng:

Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đã cũ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên sẽ tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Chiếc xe máy Honda Lead biển kiểm soát 19E1 – 296.xx tuy bị cáo sử dụng vào việc vận chuyển hàng cấm, nhưng chiếc xe này bị cáo thế chấp tại Công ty S. Việc bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội Công ty không biết. Do vậy sẽ trả lại cho bị cáo.

Chiếc điện thoại di động Sam Sung Galaxy J3 thu giữ của bị cáo do không liên quan đến việc phạm tội nên sẽ trả lại cho bị cáo.

Đi với số pháo nổ còn lại sau giám định là hàng cấm tàng trữ nên sẽ tịch thu để tiêu hủy.

Chiếc sim điện thoại 0964.423.xxx của bị cáo không còn giá trị nên sẽ tiêu hủy.

[7]. Về nguồn gốc số pháo bị cáo vận chuyển, bị cáo khai mua của một người không quen biết, không rõ địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ làm rõ để xử lý.

[8]. Đối với người nam giới tên T, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng chưa làm rõ được là ai. Thuê bao số 0969.251.xxx, Công ty viễn thông Viettel Phú Thọ cung cấp chủ thuê bao là Đỗ Bằng G, sinh năm 1976 ở khu 3, xã H, huyện L, tỉnh Phú Thọ. Cơ quan CSĐT - Công an huyện Đoan Hùng đã nhiều lần triệu tập G đến làm việc nhưng G không có mặt ở địa phương. Hiện không rõ Đỗ Bằng G ở đâu. Do vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, làm rõ, sẽ xử lý sau.

[9]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật hình sự:

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Thị B phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

2. Xử phạt bị cáo Bùi Thị B 55.000.000đ (Năm mươi lăm triệu đồng). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đã cũ.

- Tịch thu để tiêu hủy 01 thùng pháo có kích thước dài 59cm, rộng 34cm, cao 18cm, cân nặng 5,5kg và 01 thùng pháo có kích dài 59cm, rộng 34cm, cao 18cm, cân nặng 06kg, đều có dán tem niêm phong của Viện Khoa học hình sự - Bộ công an.

- Trả lại cho bị cáo 01 xe máy Honda Lead biển kiểm soát 19E1 – 296.xx và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy J3 đã cũ;

- Tiêu hủy 01 sim điện thoại di động số 0964.423.xxx.

(Các vật chứng gồm 02 điện thoại di động, 01 xe máy Honda Lead và 01 sim điện thoại di động hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đoan Hùng đang quản lý, 02 thùng pháo nổ hiện Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Phú Thọ đang quản lý).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Bùi Thị B phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HS-ST ngày 18/01/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:04/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đoan Hùng - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về