Bản án 04/2019/HS-ST ngày 14/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 04/2019/HS-ST NGÀY 14/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 176/2018/TLST-HS ngày 22 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 177/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Lý Phương, sinh năm 1995 (tên gọi khác: T); nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp Ph H, xã Ph T, huyện Ch Th, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: Không biết chữ; dân tộc: Khơme; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm Qu (đã chết) và bà Lý Thị S, sinh năm 1972; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 01/11/2018, bị Toà án nhân dân huyện C K, tỉnh Tr V xử phạt 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại Bản án số 17/2018/HS-ST, bị cáo đang chờ chấp hành án; có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Hồ Minh H, sinh năm 1975; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khóm 5, phường 9, thành phố S Tr, tỉnh Sóc Trăng; tạm trú: Lò gạch Nguyễn Th thuộc khu phố C Ch, phường Th Ph, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Lê Văn H, sinh năm 1949; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lý Ph và ông Hồ Minh H có quen biết với nhau.

Khong 10 giờ 30 phút ngày 12/6/2018, Ph đi bộ đến lò gạch Nguyễn Th gặp ông H để xin vào phòng trọ của ông H (nằm trong khuôn viên lò gạch Nguyễn Thu) nghỉ ngơi một lúc, ông H đồng ý. Sau đó, ông H dẫn Ph về phòng trọ mở cửa cho Ph vào nằm nghỉ ngơi, còn ông H tiếp tục đi làm việc. Đến khoảng 13 giờ 00 phút cùng ngày, Ph khóa cửa phòng lại và đi đến chỗ ông H đang làm việc trả chìa khóa cho ông H rồi Ph đi uống bia với một số người bạn của Ph (không rõ nhân thân, lai lịch). Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, Ph quay lại lò gạch Nguyễn Thu gặp ông H và tiếp tục xin vào phòng ông H để nghỉ ngơi, ông H đồng ý. Lúc này, ông H đưa cho Ph chùm chìa khóa (gồm chìa khóa cửa phòng, chìa khóa xe mô tô biển số 83P2-741.57) để Phtự mở cửa vào phòng vì ông H đang làm việc. Trong lúc nằm nghỉ tại phòng của ông H, Ph mở cửa tủ quần áo trong phòng ông H để tìm cục sạc pin để sạc điện thoại di động thì phát hiện trong túi quần đang treo trong tủ có số tiền 2.600.000đ (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng). Lúc này, Ph nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của ông H nên Phlấy hết số tiền 2.600.000đ (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng) bỏ vào trong túi quần sau bên trái đang mặc của Phương. Sau đó, Ph tiếp tục tìm kiếm trong tủ quần áo này thì phát hiện 01 (Một) chiếc nhẫn vàng loại 18K, trọng lượng 0,59 phân được gói trong tờ giấy, Ph lấy chiếc nhẫn này bỏ vào trong túi quần phía trước bên phải đang mặc, Ph tiếp tục lấy 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 của ông H đang để dưới nền gạch bỏ vào túi quần phía trước bên trái. Sau đó, Ph đi ra ngoài khóa cửa phòng của ông H lại rồi lấy chìa khóa do ông H đã đưa trước đó và Phđi đến vị trí xe mô tô biển số 83P2-741.57 đang dựng trong khuôn viên lò gạch Nguyễn Th (cách phòng trọ của ông H khoảng 70 mét) khởi động máy điều khiển xe 83P2-741.57 đi ra khỏi khuôn viên lò gạch Nguyễn Th. Trên đường đi Ph ghé vào một tiệm vàng (không rõ tên) tại khu vực bến xe Miền Tây, thành phố Hồ Chí Minh bán 01 (Một) chiếc nhẫn vàng vừa trộm được với số tiền 1.150.000đ (Một triệu một trăm năm mươi nghìn đồng) cùng với số tiền 2.600.000đ (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng) trộm được Ph dùng hết vào việc tiêu xài cá nhân, còn 01 (Một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 thì Ph làm mất trên đường bỏ trốn.

Khong 16 giờ 30 phút cùng ngày, ông H đi làm về đến phòng trọ thì phát hiện bị mất số tài sản gồm: 01 (Một) xe mô tô biển số 83P2-741.57; 01 (Một) nhẫn vàng 18K, trọng lượng 05 phân 09 ly; 01 (Một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 và số tiền 2.600.000đ (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng) nên ông H đến Công an phường Th Ph trình báo sự việc. Nhận được tin báo, Công an phường Th Ph tiến hành các hoạt động xác minh và lập hồ sơ vụ việc ban đầu chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền.

Đến ngày 16/6/2018, Phđiều khiển xe mô tô biển số 83P2-741.57 đến lại trả cho ông H.

Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 152/KLTS-TTHS ngày 06/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Tân Uyên, kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng bạc đen, biển số 83P2-741.57, đã qua sử dụng, tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 14.300.000 đồng; 01 (một) nhẫn vàng 18K, trọng lượng 05 phân 09 ly, đã qua sử dụng, tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 1.357.000 đồng; 01 (một) điện thoại di động Samsung Galaxy J7, màu vàng, đã qua sử dụng, tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 4.500.000 đồng. Tổng giá trị tài sản định giá là 20.157.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định được, xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng đen bạc, biển số 83P2-741.57 là của ông Hồ Minh H đứng tên chủ sở hữu hợp pháp. Ngày 05/8/2018, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã Tân Uyên ra Quyết định xử lý vật chứng số 121, trả lại xe mô tô biển số 83P2-741.57 cho ông H.

Về phần trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Hồ Minh H sau khi đã nhận lại xe mô tô biển số 83P2-741.57, ông H không có yêu cầu gì. Đối với các tài sản bị mất trộm còn lại gồm 01 (Một) nhẫn vàng 18K, trọng lượng 05 phân 09 ly; 01 (Một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 và số tiền 2.600.000đ (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng) không thu hồi được, ông H không yêu cầu bị cáo Ph phải bồi thường.

Cáo trạng số 168/CT-VKS.TU ngày 11/10/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Lý Phvề tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 56 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Lý Ph mức hình phạt từ 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, tổng hợp với hình phạt 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù tại Bản án số 17/2018/HS-ST ngày 01/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện C K, tỉnh Trà Vinh, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng đến 04 (Bốn) năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại một phần tài sản bị chiếm đoạt, không có yêu cầu gì khác nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Không có.

Tại phiên tòa, bị cáo Lý Phđã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố đối với bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã vi phạm pháp luật vì đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Lý Phtại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo đã khai báo trước cơ quan điều tra, lời khai của bị cáo trước sau đều thống nhất với nhau và phù hợp với lời khai của bị hại cùng những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Ngày 12/6/2018, tại lò gạch Nguyễn Th thuộc khu phố Cây Chàm, phường Th Ph, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, Lý Ph đã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của ông Hồ Minh H lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt 01 (Một) xe mô tô biển số 83P2-741.57; 01 (Một) nhẫn vàng 18K, trọng lượng 05 phân 09 ly; 01 (Một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 và số tiền 2.600.000 đồng (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản tại thời điểm chiếm đoạt là 22.757.000 đồng (Hai mươi hai triệu bảy trăm năm mươi bảy nghìn đồng) hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Bản thân bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây mất trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị trừng trị nhưng vì tư lợi nên bị cáo vẫn cố ý phạm tội và mong muốn chiếm đoạt được tài sản của bị hại. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tự nguyện giao trả lại một phần tài sản cho bị hại. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt.

[7] Do bị cáo đang chờ chấp hành hình phạt tù tại Bản án số 17/2018/HS-ST ngày 01/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện C K ,tỉnh Trà Vinh nên Hội đồng xét xử phải tổng hợp hình phạt của bản án này và hình phạt tại Bản án hình sự số 17/2018/HS-ST ngày 01/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện C K, tỉnh Trà Vinh theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự [8] Mức hình phạt đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[10] Về xử lý vật chứng: Không có.

[11] Về án phí: Bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lý Phphạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 56 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Lý Ph01 (Một) năm tù. Tổng hợp hình phạt 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù tại Bản án số 17/2018/HS-ST ngày 01/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/6/2018.

2. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra.

3. Về xử lý vật chứng: Không có.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Lý Ph phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HS-ST ngày 14/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:04/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về