Bản án 04/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC THUỶ, TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 04/2019/HS-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/ 2019/ TLST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2019/QĐXX ST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên toà số: 02 ngày 26 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

- Nguyễn Văn B: Tên gọi khác: Không - Sinh ngày 12/8/1996 tại huyện L, tỉnh Hoà B.

- Nơi cư trú: thôn Đ, xã P, huyện L, tỉnh Hoà B.

- Dân tộc; Kinh: Quốc tịch; Việt Nam.

- Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không.

- Trình độ văn hoá: 8/12.

- Con ông: Nguyễn Văn M SN 1969, con bà Nguyễn Thị H SN 1971.

Hiện trú tại; thôn Đ, xã P, huyện L, tỉnh Hoà B.

- Vợ: Đinh Thị N; SN 1997 hiện đang trú tại thôn Đ, xã P, huyện L, tỉnh Hoà Binh.

- Con: Bị cáo chưa có con.

- Tiền án, tiền sự: Không;

- Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13 tháng 01 năm 2019 đến nay tại nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà B.

- Hiện bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ L1 quanAnh Phạm Văn L; SN 1988, trú tại thôn B, xã T, huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà B, vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn M1 SN 1969, chị Đinh Thị N SN 1997, cùng trú tại thôn Đ - P - L - Hoà B, có mặt.

- Người chứng kiến: Chị Nguyễn Thị Kim L, SN 1980, anh Quách Thanh B SN 1994 cùng trú tại P, L, Hoà Bình , vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 13/01/2019, Bị cáo Nguyễn Văn B, sinh năm 1996, có hộ khẩu thường trú tại thôn Đồng Danh, xã Phú Thành, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình đã bị tổ tuần tra Công an huyện Lạc Thủy phát hiện bắt quả tang bị cáo Nguyễn Văn B về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý tại sân nhà nghỉ Trúc Lâm Viên thôn Phú Thắng, xã Phú Thành, huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà B. Quá trình phạm tội của bị cáo B diễn biến vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 13/01/2019 bị cáo B điều khiển xe mô tô BKS 28L1-08946 đi ra ngã 5 Tế Tiêu thuộc thị trấn Đại Nghĩa - Mỹ Đức - Hà Nội để mua ma tuý. Khi đến ngã 5 Tế Tiêu bị cáo vào một quán nước ven đường đối diện cây rút tiền tự động (ATM) của ngân hàng AGRIBANK chi nhánh Mỹ Đức - Hà Nội gặp một người tên là Thành mà bị cáo đã quen từ trước để hỏi mua ma tuý với số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) khoảng 10 - 15 phút sau Thành quay lại đưa cho bị cáo B ma tuý được gói trong túi nilon nhỏ, mua được ma tuý bị cáo đi xe mô tô về nhà, về đến nhà bị cáo cất xe và đi ra quốc lộ bắt xe khách xuống nhà nghỉ Trúc Lâm Viên tại thôn Phú Thắng, xã Phú Thành, huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà B để sử dụng ma tuý, khi vừa vào đến sân nhà nghỉ thì bị tổ tuần tra Công an huyện Lạc Thuỷ bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (một) gói nilon màu trắng có kích thước 1.5 x 3 cm, bên trong gói ni lon có chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong trong một phong bì ký hiệu mẫu số 01(M1).

- 02 (hai) ống hút màu trắng bằng nhựa và 01( một) ống đầu đốt kim loại được niêm phong trong một phong bì ký hiệu mẫu số 02 (M2).

- Số tiền mặt 1.240.000đ (một triệu hai trăm bốn mươi nghìn đồng) tất cả số tiền được niêm phong trong phong bì được đánh ký hiệu mẫu số 03 (M3).

- 01 (một) chiếc điện thoại di động IPHONE màu hồng nhạt, 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu NOKIA màu xanh đen, cả hai chiếc được niêm phong trong một phong bì được đánh ký hiệu số 04 (M4).

Qua khám xét tại chỗ ở của bị cáo thu giữ;

- 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA loại xe SIRIUS màu trắng đen BKS 28L1 - 08946.

- 01 (một) B ga có 01 đầu khò mini.

- 02 (hai) túi ống hút màu đen và màu trắng.

- 01 (một) hộp nhựa đựng ống thuỷ tinh màu trắng dài 20cm.

Căn cứ quyết định trưng cầu giám định số: 12 ngày 14/01/2019 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Thủy. Tại bản kết quả giám định số: 15/ KLGĐ-CAT-PC09 ngày 17/01/2019 của phòng kỹ thuật hình sự - CAT Hoà B kết luận “ túi nilon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn B giám định là ma tuý loại Methampetamine, có khối lượng 0,35 gam (không phẩy ba lăm gam) là chất ma tuý nằm trong danh mục II, số thứ tự 323, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Quá trình điều tra cho thấy bị cáo Nguyễn Văn B là đối tượng nghiện ma tuý từ giữa năm 2018, bị cáo khai ngoài lần bị bắt quả tang ngày 13/1/2019 bị cáo còn có hai đến ba lần ra ngã 5 Tế Tiêu mua ma tuý của người có tên là Thành về sử dụng cho bản thân.

Trong vụ án này còn có đối tượng tên Thành người đã bán ma tuý cho bị cáo B ở khu vực gần cây rút tiền ATM của ngân hàng AGIBANK chi nhánh Mỹ Đức - Hà Nội vào khoảng 08 giờ ngày 13/ 01/2019 và những lần trước đó. Quá trình điều tra chưa xác định được danh tính, tên tuổi Cơ quan cảnh sát điều tra huyện Lạc Thuỷ đã tiến hành truy tìm nhưng không có kết quả. Nên tiếp tục phối hợp điều tra để theo dõi xử lý sau.

Đối với chị Nguyễn Thị Kim L1 chủ nhà nghỉ Trúc Lâm Viên, khi bị cáo đến thuê nhà nghỉ, chị L1 không biết việc bị cáo thuê nhà nghỉ để sử dụng ma tuý do vậy cơ quan cảnh sát điều tra không đề cập xư lý.

Đối với anh Phạm Văn L trú tại thôn Ba Bường, xã Thanh Nông, huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà B. Là người mang chiếc xe mô tô BKS 28L1- 08956 đến sửa tại quán của gia đình bị cáo B. Sau khi xe được sửa xong anh L chưa kịp đến lấy bị cáo đã tự ý lấy xe của anh L đi mua ma tuý, việc bị cáo lấy xe đi mua ma tuý anh L hoàn toàn không biết nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Thuỷ không đề cập xử lý.

Tại bản cáo trạng số 05/CT-HSTA ngày 27 tháng 3 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Thuỷ đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn B về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn B về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn B từ 18 đến 24 tháng tù. Áp dụng Điều 329 BLTTHS đề nghị tiếp tục tạm giam bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 1,2 Điều 47 BLHS, khoản 2 Điều 106 BLTTHS, đề nghị HĐXX tịch thu xuất huỷ;

- 01 (một) gói nilon màu trắng có kích thước 1.5 x 3 cm, bên trong gói ni lon có chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong trong một phong bì ký hiệu mẫu số 01(M1).

- 02 ( hai) ống hút màu trắng bằng nhựa và 01( một) ống đầu đốt kim loại được niêm phong trong một phong bì ký hiệu mẫu số 02 ( M2).

- 01 (một) B ga có 01 đầu khò mini.

- 02 ( hai) túi ống hút màu đen và màu trắng.

- 01 (một) hộp nhựa đựng ống thuỷ tinh màu trắng dài 20cm.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn B số tiền mặt 1. 240.000đ (một triệu hai trăm bốn mươi nghìn đồng) - 01 (một) chiếc điện thoại di động IPHONE màu hồng nhạt, 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu NOKIA màu xanh đen cả hai chiếc được niêm phong trong một phong bì được đánh ký hiệu số 04 (M4).

Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào lời khai của bị cáo, các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[I].Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan CSĐT Công an huyện Lạc Thuỷ, Điều tra viên, VKSND huyện Lạc Thuỷ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra , truy tố đã bảo đảm đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo trong vụ án. Việc xét xử vắng mặt một số nhân chứng trong vụ án như đã nêu trên là phù hợp với quy định tại 293 BLTTHS không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết, xét xử khách quan vụ án.

[ II].Về nội dung vụ án: HĐXX nhận thấy bị cáo Nguyễn Văn B là người có đủ năng lực hành vi dân sự, năng lực trách nhiệm hình sự. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà có nội dung phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với bản kết luận giám định, do đó đủ căn cứ để xác định. Bị cáo Nguyễn Văn B SN 1996 trú tại thôn Đồng Danh, xã Phú Thành, huyện lạc Thuỷ, tỉnh Hoà B là người nghiện ma túy khoảng 11 giờ 30 phút ngày 13/01/2019 đã bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy cùng vật chứng là 01 (một) túi nilon màu trắng có kích thước 1,5x3cm bên trong có chứa chất tinh thể màu do bị cáo B khai nhận đó là ma tuý đã được giám định tại kết quả giám định số: 15/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 17/01/2019 của phòng kỹ thuật hình sự - CAT Hoà B kết luận “ túi nilon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn B giám định là ma tuý loại Methampetamine, có khối lượng 0,35 gam ( không phẩy ba lăm gam) là chất ma tuý nằm trong danh mục II, số thứ tự 323, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ .

Hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn B đã nhận tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nó không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh, trật tự nơi địa phương mà còn reo giắc cái chết trắng cho chính bản thân bị cáo và là tệ nạn của xã hội của bao người đang ở độ tuổi còn rất trẻ phần lớn lại là những lao động chính trong gia đình, bị cáo hoàn toàn nhận thức được tác hại của ma túy là không thể kể hết, cả loài người đang cố gắng bằng mọi cách chống lại ma túy vì nó hủy hoại cả thế hệ trẻ tương lai, làm cho bao gia đình tan cửa nát nhà phát sinh mọi tệ nạn xã hội. Do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.

Xét về nhân thân bị cáo thấy rằng: Bị cáo được sinh ra trong gia đình lao động được bố mẹ nuôi ăn học chưa hết phổ thông bị cáo ở nhà phụ giúp bố mẹ duy trì cuộc sống cũng như bao người khác bị cáo lập gia đình riêng song vì a dua bạn bè đến giữa năm 2018 đã mắc nghiện, trong cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn lẽ ra bị cáo phải cố gắng vượt qua làm ăn giúp gia đình duy trì cuộc sống, nhưng bị cáo đã không làm được. Để thoả mãn nhu cầu nghiện của bản thân bị cáo đã tự ý dùng xe của anh L đang sửa ở nhà bị cáo đi mua ma tuý về tàng trữ để sử dụng trái phép cho bản thân. Do vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có thời gian cải tạo giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội, cần phải tiếp tục duy trì biện pháp tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo không có tình tiết nào. Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tại cơ quan điều tra và phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Trong vụ án này còn có đối tượng tên Thành bị cáo không rõ địa chỉ, là người đã bán ma túy cho bị cáo tại một quán nước ven đường đối diện cây rút tiền tự động (ATM) của ngân hàng AGRIBANK chi nhánh Mỹ Đức - Hà Nội, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Thủy tiếp tục làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật là có căn cứ HĐXX không đề cập.

Đối với chị Nguyễn Thị Kim L1 chủ nhà nghỉ Trúc Lâm Viên, khi bị cáo đến thuê nhà nghỉ, chị L1 không biết việc bị cáo thuê nhà nghỉ để sử dụng ma tuý do vậy cơ quan cảnh sát điều tra không đề cập xư lý là có căn cứ nên HĐXX không đề cập.

Đối với anh Phạm Văn L trú tại thôn Ba Bường, xã Thanh Nông, huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà B. Là người mang chiếc xe mô tô BKS 28L1-08946 đến sửa tại quán của gia đình bị cáo B. Sau khi xe được sửa xong anh L chưa kịp đến lấy bị cáo đã tự ý lấy xe của anh L đi mua ma tuý, việc bị cáo lấy xe đi mua ma tuý, anh L hoàn toàn không biết nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Thuỷ không đề cập xử lý là có căn cứ nên HĐXX không đề cập.

Đối với việc bị cáo khai trước đó đã 2 đến 3 lần mua ma tuý của Thành tại ngã 5 Tế Tiêu xong chưa có chứng cứ chứng minh cho những lần mua ma tuý trước đó của bị cáo nên HĐXX không đề cập.

- Về vật chứng vụ án:

- 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA loại xe SIRIUS màu trắng đen BKS 28L1 - 08946, của anh Phạm Văn L trú tại thôn Ba Bường, xã Thanh Nông huyện Lạc Thuỷ sửa chữa tại nhà bị cáo B, bị cáo đã dùng làm phương tiện đi mua ma tuý anh L không biết cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là có căn cứ.

Đối với 01 (một) gói nilon màu trắng có kích thước 1.5 x 3 cm, bên trong gói nilon có chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong trong một phong bì ký hiệu mẫu số 01(M1) là ma tuý.

- 02 (hai) ống hút màu trắng bằng nhựa và 01( một) ống đầu đốt kim loại được niêm phong trong một phong bì ký hiệu mẫu số 02 (M2).

- 01 (một) B ga có 01 đầu khò mini.

- 02 (hai) túi ống hút màu đen và màu trắng.

- 01 (một) hộp nhựa đựng ống thuỷ tinh màu trắng dài 20cm, là những vật L1 quan đến ma tuý không có giá trị sử dụng. Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên Toà đề nghị HĐXX tịch thu tiêu huỷ là là có căn cứ.

- Số tiền mặt 1. 240.000đ (một triệu hai trăm bốn mươi nghìn đồng) - 01 (một) chiếc điện thoại di động IPHONE màu hồng nhạt, 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu NOKIA màu xanh đen cả hai chiếc được niêm phong trong một phong bì được đánh ký hiệu số 04 (M4) là vật thu trên người bị cáo không L1 quan đến việc tàng trữ trái phép chất ma tuý VKS đề nghị trả lại cho bị cáo là có căn cứ nên HĐXX xem xét.

- Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Văn B phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Tuyên phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn B 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 13 tháng 01 năm 2019.

3. Vật chứng: Áp dụng điểm a,c khoản 1,2 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu xuất hủy 01 phong bì niên phong có ghi mẫu giám định ma tuý của phòng KTHS - CA tỉnh Hoà B, chứa 0,28g Methamphetamine , 01 ( một) phong bì ký hiệu số 02( M2) bên trong có 02 ống hút màu trắng bằng nhựa 01 đầu bị đốt, 01 ( một) B ga có một đầu khò mini, 02( hai) túi ống hút màu trắng và đen, 01 ( một) hộp nhựa đựng ống thuỷ tinh màu trắng dài 20cm. Tại phiếu nhập kho ngày 27/3/2019 số: 000012 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Thuỷ.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn B 01 (một) chiếc điện thoại di động IPHONE màu hồng nhạt, 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh đen cả hai chiếc được niêm phong trong một phong bì được đánh dấu ký hiệu 04 (M4) theo phiếu nhập kho ngày 27/3/2019 số: 000012 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Thuỷ và số tiền 1.240.000đ (một triệu hai trăm bốn mười nghìn đồng) đang lưu giữ trong tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Thuỷ.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số: 326 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí, lệ phí Toà án. Bị cáo Nguyễn Văn B phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ L1 quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương lên Toà án nhân dân tỉnh Hoà B xin xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Thủy - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về