Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 29/03/2019 về xin ly hôn

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 04/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2019 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 29 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 233/2018/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2018 về việc Xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Dương Công Q, sinh năm 1983 (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn 12, xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông.

- Bị đơn: Chị Hứa Thị N, sinh năm 1987 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn 12, xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 20/11/2018, lời khai của anh DươngCông Q trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa:

Về hôn nhân: Anh Q và chị N kết hôn với nhau vào ngày 15/01/2007, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện không bị ép buộc. Trong quá trình sống chung, anh Q cho rằng vợ chồnganh chị thường xuyên cải nhau, bất đồng quan điểm sống, chị N thường xuyên bỏ nhà đi một thời gian, sau đó quay về. Mâu thuẫn xảy ra từ khi chúng sống với nhau và bắt đầu ly thân từ tháng 4 năm 2018 đến nay. Vì thấy hết tình cảm với nhau nên anh Q yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh Q được ly hôn với chị N.

Về con chung: Anh Dương Công Q và chị Hứa Thị N có 01 con chung là cháu Dương Công Đ, sinh ngày 18/5/2007. Hiện nay cháu Đ đang ở với anh Q nên anh Q có nguyện vọng nuôi cháu Đ cho đến khi cháu Đ đủ tuổi trưởng thành.

- Về tài sản chung và công nợ: Anh Dương Công Q và chị Hứa Thị N có tàisản chung và nợ chung. Tuy nhiên, anh Q không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với chị Hứa Thị N: Trong quá trình giải quyết vụ án, tất cả các văn bản của Tòa án đều được tống đạt hợp lệ cho chị N, nhưng chị N không đến Tòa án làm việc. Nên Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil đã phối hợp với chính quyền địa phương lập biên bản về việc không tống đạt được văn bản của Tòa án để làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án.

- Kết quả thu thập chứng cứ:

Tại biên bản xác minh ngày 10/12/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil tại Công an xã Đắk Rla: Chị Hứa Thị N có đăng ký HKTT tại thôn 12, xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông và hiện nay chị N đang sinh sống tại địa phương.

Tại biên bản xác minh ngày 08/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil tại địa phương xã Đắk Rla: Chị N và anh Q sau khi kết hôn thì sinh sống tại thôn 12, xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông. Khi có mâu thuẫn, thì anh Q và chị N không báo cho chính quyền địa phương nên địa phương không nắm rõ. Tuy nhiên, ban tự quản thôn có nắm thông tin từ anh Q báo lại là anh Q và chị N xảy ra mâu thuẫn nhiều lần, chị N tự ý bỏ nhà đi một thời gian rồi về lại.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tham gia phiên toà xác định việc tuân thủ theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm nguyên đơn đã tuân thủ trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật đối với bị đơn không hợp tác, không chấp hành đúng theo quy định của pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Dương Công Q. Anh Dương Công Q được ly hôn với chị Hứa Thị N.

- Về con chung: Giao cháu Dương Công Đ, sinh ngày 18/5/2007 cho anh Q là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Đ đủ 18 tuổi, trưởng thành. Chị N được quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung, anh Q không được cản trở hoặc gây trở ngại đến việc thăm nom, giáo dục con chung.

- Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

- Về án phí: Anh Dương Công Q nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơthẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng:

 [1.1] Đây là vụ án xin ly hôn, bị đơn là chị Hứa Thị N có địa chỉ tại thôn 12, xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông. Nên Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil thụ lý là đúng quy định tại Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

 [1.2] Bị đơn chị Hứa Thị N, trong quá trình giải quyết vụ án chị Hứa Thị N vắng mặt nên Tòa án đã tiến hành mở phiên họp về kiểm tra, giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ nhưng không tiến hành hòa giải được; ngày 22/02/2019

Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil đã thông báo cho chị N biết toàn bộ nội dung kết quả mở phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ là đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 210 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Sau khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử, mặc dù đã hai lần được Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil triệu tập tham gia phiên tòa nhưng chị N vắng mặt không có lý do chính đáng gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Mặt khác sự vắng mặt của chị Hứa Thị N đã không cung cấp được cho Tòa án chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình và phản bác lại đối với yêu cầu của nguyên đơn.

Vì vậy, theo quy định tại khoản 4 Điều 91 và điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, chị N phải chịu hậu quả của việc không đưa ra được chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình và Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil tiến hành mở phiên tòa để xét xử vụ án vắng mặt bị đơn là chị Hứa Thị N là có căn cứ.

 [1.3] Ngày 11/3/2019 anh Dương Công Q là nguyên đơn có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Dương Công Q là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2] Xét yêu cầu của nguyên đơn anh Dương Công Q:

 [2.1] Về hôn nhân: Anh Dương Công Q và chị Hứa Thị N khi lấy nhau có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn theo giấy chứng nhận kết hôn số 02, ngày 15/01/2007. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc, quá trình chung sống hai bên xảy ra nhiều mâu thuẩn dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn và đã ly thân với nhau từ tháng 4/2018 đến nay, nên không còn khả năng đoàn tụ. Trong quá trình lấy lời khai tại Tòa án, anh Q cũng thừa nhận, vợ chồng anh chị không còn tình cảm với nhau, không muốn tiếp tục chung sống với nhau nữa và muốn được ly hôn để ổn định cuộc sống vì hôn nhân vợ chồng không đạt được mục đích.

Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn phát sinh từ lâu nhưng cả hai không tìm ra được giải pháp khắc phục. Anh chị đã không còn tin tưởng, quan tâm chăm sóc lẫn nhau, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, không có khả năng đoàn tụ, hôn nhân của anh chị thật sự không đạt được mục đích. Do vậy, Hội đồng xét xử nghĩ cần căn cứ vào Điều 51; Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận đơn xin ly hôn của anh Q và giải quyết cho anh Q được ly hôn với chị N.

 [2.2] Về việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung: Hiện nay cháu Dương Công Đ, sinh ngày 18/5/2007 đang sống chung với anh Q. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Q có nguyện vọng nuôi con chung cho đến khi cháu Dương Công Đ đủ tuổi trưởng thành.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì thì Tòa án quyết định giao con cho một bên căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Hiện nay, cháu Dương Công Đ đã trên 07 tuổi. Trong quá trình tố tụng, cháu Đ có nguyện vọng được ở với bố là anh Dương Công Q.

Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các cháu. Hội đồng xét xử, xét thấy cần giao các cháu Dương Công Đ cho anh Q trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, cho đến khi cháu Dương Công Đ đủ 18 tuổi trưởng thành là phù hợp.

 [2.3] Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung: Anh Q không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

 [3] Về án phí: Anh Dương Công Q phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tại phiên toà là có căn cứ, Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147; khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 51; Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Dương Công Q. Anh Dương Công Q được ly hôn với chị Hứa Thị N.

2. Về con chung: Giao cháu Dương Công Đ, sinh ngày 18/5/2007 cho anh Dương Công Q được trực tiếp nuôi dưỡng trông nom, chăm sóc, giáo dục, đến khi cháu Dương Công Đ đủ 18 tuổi trưởng thành. Chị Hứa Thị N được quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung, anh Dương Công Q không được cản trở hoặc gây trở ngại đến việc thăm nom, giáo dục con chung.

Việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật HNGĐ năm 2014.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

Vì lợi ích của con chung theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án cóthể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; yêu cầu cấp dưỡng, thay đổi mức cấp dưỡng, chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định các Điều 84; Điều 110; Điều 117; Điều 118 và Điều 119 Luật HNGĐ năm 2014.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Dương Công Q phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003254 ngày 28/11/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 29/03/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:04/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về