TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUYÊN HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 04/2019/DSST-HNGĐ NGÀY 26/04/2019 VỀ XIN LY HÔN
Ngày 26 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 89/2018/TLST-HNGĐ ngày 10/12/2018 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2019/QĐST-DS ngày 25/3/2019. Quyết định hoãn phiên tòa số: 03/2019/QĐHPT-DSST ngày 11/4/2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1973
Địa chỉ: Thôn 2 P, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Bình (có mặt).
Bị đơn: Chị Đặng Thị Hồng T, sinh năm: 1995
Địa chỉ: Thôn 2 P, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Bình (vắng mặt lần thứ 2).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 07/11/2018 và bản tự khai ngày 09/01/2019 anh Nguyễn Văn T trình bày: Tôi (Nguyễn Văn T) và chị Đặng Thị Hồng T tìm hiểu để đi đến kết hôn với nhau do hai bên hoàn toàn tự nguyện không có ai ép buộc, đã đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Bình vào ngày 03/3/2017. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống chung cùng bố mẹ anh T tại thôn 2 P, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Bình được ba tháng giữa vợ chồng không có mâu thuẫn gì thì tháng 6/2017 chị Tiến tự ý bỏ nhà đi về sống tại gia đình bên ngoại thôn K, xã C cho đến nay. Khi đi chị Tiến không cho anh T biết và cũng không nói gì với anh T. Anh Nguyễn Văn T và chị Đặng Thị Hồng T đã sống ly thân từ tháng 6 năm 2017 cho đến nay xét thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn nữa, không thể khắc phục được nên anh Nguyễn Văn T làm đơn xin ly hôn chị Đặng Thị Hồng T.
Về con chung của vợ chồng: Anh Nguyễn Văn T khai vợ chồng không có con chung nên không có yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng: Anh Nguyễn Văn T khai vợ chồng không có tài sản chung và công nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Án phí anh Nguyễn Văn T đã nộp số tiền 300.000đ nay xin chịu toàn bộ.
Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa đã thụ lý vụ án theo yêu cầu của anh Nguyễn Văn T và triệu tập hai bên đương sự đến tại trụ sở Tòa án huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình để giải quyết nhiều lần, nhưng việc triệu tập và thông báo tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải chỉ có mặt anh Nguyễn Văn T còn chị Đặng Thị Hồng T vắng mặt không rõ lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Văn T xin ly hôn chị Đặng Thị Hồng T quá trình giải quyết anh Nguyễn Văn T có mặt còn chị Đặng Thị Hồng T vắng mặt nhiều lần không rõ lý do. Tòa án đã phối hợp với UBND xã C xác minh tại địa phương thì chị Đặng Thị Hồng T có hộ khẩu thường trú tại thôn K, xã C hiện đang do công an xã Châu Hóa quản lý, hiện nay chị Tiến không có mặt tại địa phương đi đâu không rõ. Tòa án đả tiến hành xác minh tại nhà bà Nguyễn Thị G là mẹ của chị Đặng Thị Hồng T trú tại thôn K, xã C thì bà G cung cấp thông tin chị T và anh T đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện vào năm 2017, hiện nay chị T đã đi làm ăn ở miền Nam, thỉnh thoảng có liên lạc về với gia đình, nhưng không cho biết địa chỉ nơi tạm trú và nơi sinh sống làm ăn của chị T cho gia đình và anh T biết, giữa chị T và anh T không có con chung, tài sản chung và không vay, mượn gì của ai. Vừa qua bà Nguyễn Thị G có nhận được các loại giấy triệu tập của Tòa án huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình (trong đó có 01 giấy thông báo thụ lý vụ án, 01 giấy triệu tập và 01 thông báo phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải) đối với chị Đặng Thị Hồng T. Bà G đã điện thoại báo cho chị T biết việc anh T xin ly hôn và thời gian triệu tập chị T về để giải quyết nhưng chị T nói vì công việc ở xa nên không thể về để giải quyết được. Việc anh T làm đơn xin ly hôn thì chị T có nói với gia đình là đồng ý ly hôn với anh T. Tòa án đã mở phiên tòa xét xử và đã hoãn phiên tòa lần thứ nhất vì lý do chị Đặng Thị Hồng T không có mặt. Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử lần thứ hai chị T vẫn tiếp tục vắng mặt vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để xét xử vắng mặt chị Đặng Thị Hồng T là đúng quy định của pháp luật.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn T và chị Đặng Thị Hồng T tìm hiểu để đi đến kết hôn là do hai bên hoàn toàn tự nguyện, không có ai ép buộc đã đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên đây là cuộc hôn nhân hợp pháp, nhưng do trong quá tình chung sống chị Đặng Thị Hồng T bỏ đi khỏi nhà mà không nói với anh Nguyễn Văn T cho đến nay, hai vợ chồng không còn liên lạc gì với nhau nữa nên tình cảm vợ chồng đã không còn anh Nguyễn Văn T và chị Đặng Thị Hồng T sống ly thân từ tháng 6 năm 2017 cho đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm vợ chồng giữa anh Nguyễn Văn T và chị Đặng Thị Hồng T thực sự không còn nữa, mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử xét thấy việc anh Nguyễn Văn T xin được ly hôn chị Đặng Thị Hồng T là có căn cứ phù hợp với các quy định của pháp luật. Vì vậy cần áp dụng khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để xét xử anh Nguyễn Văn T được ly hôn chị Đặng Thị Hồng T.
[3] Về con chung của vợ chồng: Anh Nguyễn Văn T khai cũng như kết quả xác minh, lời khai của bà Nguyễn Thị G (mẹ của chị T) thì giữa anh Nguyễn Văn T và chị Đặng Thị Hồng T chưa có con chung với nhau là phù hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng: Anh Nguyễn Văn T khai vợ chồng chưa có tài sản chung và cũng không vay, mượn gì của ai cả không yêu cầu Tòa án giải quyết do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Văn T đã nộp 300.000đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai số 0003677 ngày 10/12/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa nay phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.
[6] Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hóa phát biểu tại phiên tòa đối với Thẩm phán và Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ theo các quy định của pháp luật và tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã đảm bảo thực hiện đúng và đủ thành phần theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Quá trình giải quyết anh Nguyễn Văn T đều có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án còn chị Đặng Thị Hồng T được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do, Tòa án đã tiến hành xác minh tại UBND xã Châu Hóa và thu thập đầy đủ chứng cứ theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay anh Nguyễn Văn T có mặt còn chị Đặng Thị Hồng T vắng mặt không có lý do lần thứ 2 vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để xét xử vắng mặt chị Đặng Thị Hồng T. Về quan hệ hôn nhân đề nghị Hội đồng xét xử, xử theo hướng áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để xử anh Nguyễn Văn T được ly hôn chị Đặng Thị Hồng T. Về con chung anh Nguyễn Văn T và chị Đặng Thị Hồng T không có con chung nên không xem xét. Tài sản chung và công nợ không có nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Án phí dân sự sơ thẩm anh Nguyễn Văn T đã nộp số tiền 300.000đ tại chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa nay phải chịu toàn bộ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của anh Nguyễn Văn T đối với chị Đặng Thị Hồng T.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 để xét xử vắng mặt chị Đặng Thị Hồng T.
1. Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử: Anh Nguyễn Văn T được ly hôn chị Đặng Thị Hồng T.
2. Về con chung của vợ chồng: Anh Nguyễn Văn T và chị Đặng Thị Hồng T chưa có con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
3. Về tài sản và công nợ chung của vợ chồng: Anh Nguyễn Văn T và chị Đặng Thị Hồng T không có tài sản chung và công nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về án phí ly hôn: Anh Nguyễn Văn T phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Được khấu trừ vào số tiền mà anh Nguyễn Văn T đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000đ theo biên lai số: 0003677 ngày 10/12/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Như vậy anh Nguyễn Văn T đã nộp đủ khoản án phí.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Tuyên bố nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày xét xử sơ thẩm (26/4/2019), bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã C, huyện T, tỉnh Quảng Bình.
Bản án 04/2019/DSST-HNGĐ ngày 26/04/2019 về xin ly hôn
Số hiệu: | 04/2019/DSST-HNGĐ |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuyên Hóa - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về