Bản án 04/2018/HSST ngày 29-01-2018 về tội cướp giật tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 04/2018/HSST NGÀY 29/01/2018 VỀ CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Bảo xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 02/2018/TLST-HS ngày 12-01-2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2018/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo: Trần Văn H, sinh năm 1997, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn A N, xã V A, huyện V B, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ và bà Trần Thị L; có vợ là Nguyễn Thị Hải Y; có 1 con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 20-9-2016 Công an huyện Vĩnh Bảo xử phạt hành chính về hành vi cố ý gây thương tích; nhân thân: Ngày 23-6-2016 Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương tuyên miễn trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; bị tạm giữ từ ngày 12-9-2017 đến ngày 18-9-2017 chuyển sang tạm giam, có mặt.

2. Bị cáo: Nguyễn Văn H, sinh năm 1995, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Khu kinh tế mới, xã V A, huyện V B, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th và bà Phạm Thị Ng; có vợ là Nguyễn Thị Th; có 1 con; tiền sự, tiền án: Không; nhân thân: Năm 2013 Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Bảo ra Quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 2 năm kể từ ngày 18-3-2013; bị tạm giữ từ ngày 13-9-2017 đến ngày 18-9-2017 chuyển sang tạm giam, có mặt.

- Người bị hại: Chị Vũ Thị Ph, sinh năm 1988;

Trú tại: Xóm 7, xã Đ X, huyện Đ H, tỉnh Thái Bình, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Chị Nguyễn Thị Hải Y, sinh năm 1998;

Trú tại: Thôn A N, xã V A, huyện V B, thành phố Hải Phòng, có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Ngọc Ph, sinh năm 1982; trú tại: H B, T C, T L, Hải Phòng. Vắng mặt.

2. Bà Phạm Thị Ng, sinh năm 1975; trú tại: Khu kinh tế mới, xã V A, huyện V B, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

3. Anh Phí Văn H, sinh năm 1985; trú tại: Đ A, Đ H, Thái Bình. Vắng mặt.

4. Ông Lê Văn H, sinh năm 1966; trú tại: Thôn Th Kh, xã Th L, huyện V

B, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

5. Anh Nguyễn Khắc T, sinh năm 1983; trú tại: Ch C, xã V A, huyện V B, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

6. Anh Bùi Văn T, sinh năm 1985; trú tại: Thôn T H, xã T L, huyện V B, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 10-9-2017 Trần Văn H điều khiển xe mô tô BKS 15K1-003.15 chở sau là Nguyễn Văn H lưu thông trên Quốc lộ 10, thuộc địa phận xã Vinh Quang, huyện Vĩnh Bảo thì Trần Văn H phát hiện chị Vũ Thị Ph điều khiển xe mô tô đi phía trước, cùng chiều, có đeo một túi giả da màu hồng trước ngực. Trần Văn H nảy sinh ý định giật chiếc túi này đã bảo Nguyễn Văn H và đi xe sát chị Ph, Nguyễn Văn H ngồi sau giật mạnh chiếc túi, Trần Văn H rồ ga chạy thẳng đến Khu công nghiệp Tân Liên thì Trần Văn H và Nguyễn Văn H dừng xe, kiểm tra tài sản trong túi rồi lấy đi 300.000đ tiền mặt; 01 điện thoại Sony C3, 01 đồng hồ Longgines đeo tay màu vàng, 01 chiếc dây chuyền mỹ ký, 01 hộp phấn hiệu Naris màu trắng, 01 thỏi son vỏ hồng còn lại 01 đăng ký xe mô tô, 01 tai nghe điện thoại, 01 thẻ bảo hiểm xe mô tô, 02 thẻ ATM mang tên Vũ Thị Ph thì Nguyễn Văn H đáp xuống cống nước trong Khu công nghiệp. Số tiền 300.000đ Trần Văn H và Nguyễn Văn H đã tiêu sài hết. Sau khi sự việc xảy ra chị Ph có đơn đến Công an huyện Vĩnh Bảo trình báo. Đến 07 giờ 30 phút ngày 12-9-2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Bảo tiến hành xác minh tại xã Vĩnh An thì bà Phạm Thị Ng là mẹ của Nguyễn văn H tự nguyện giao nộp 01 hộp phấn nhãn hiệu Naris màu trắng, 01 con dao mũi nhọn bằng kim loại dài 32cm tìm thấy trong phòng của Nguyễn Văn H. Đến 10 giờ 00 phút ngày 12-9-2017 Trần Văn H đến Công an huyện Vĩnh Bảo tự thú. Đến 08 giờ 00 phút ngày 13-9-2017 Nguyễn Văn H đến Công an huyện Vĩnh Bảo đầu thú và giao nộp 01 điện thoại Sony C3 màu trắng, 01 đồng hồ Longgines màu vàng.

Ngày 12-9-2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Vĩnh Bảo tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Văn H và Nguyễn Văn H nhưng không thu giữ được gì.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 69/KL ngày 18-9-2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của huyện Vĩnh Bảo kết luận: Túi xách không còn giá trị sử dụng giá 0 đồng, 01 điện thoại Sony C3 màu trắng và tai nghe trị giá 1.000.000đ, 01 đồng hồ nữ đeo tay đã cũ trị giá 500.000đ, 01 hộp phấn Naris đã dùng trị giá 100.000đ, 01 thỏi son đã qua sử dụng trị giá 100.000đ, 01 dây chuyền giả, mỹ ký trị giá 200.000đ. Tổng tài sản trị giá 1.900.000đ.

Bản cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 12 tháng 01 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Bảo đã truy tố Trần Văn H, Nguyễn Văn H về tội Cướp giật tài sản theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự 1999.

Kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội khẳng định việc truy tố Trần Văn H, Nguyễn Văn H về tội Cướp giật tài sản theo điểm d khoản 2 Điều 136 BLHS là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136 tuyên bố Trần Văn H và Nguyễn Văn H phạm tội Cướp giật tài sản. Đối với Trần Văn H áp dụng điểm b,g, p, o khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS phạt Trần Văn H từ 42 tháng tù đến 48 tháng tù; Đối với Nguyễn Văn H áp dụng điểm b,g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS phạt Nguyễn Văn H từ 36 tháng tù đến 42 tháng tù. Miễn phạt bổ sung đối với các bị cáo. Tịch thu tiêu hủy 1 con dao nhọn.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn H và Nguyễn Văn H đều khai nhận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 10-9-2017 Trần Văn H điều khiển xe mô tô BKS 15K1-003.15 chở sau là Nguyễn Văn H lưu thông trên Quốc lộ 10, thuộc địa phận xã Vinh Quang, huyện Vĩnh Bảo thì Trần Văn H phát hiện một phụ nữ đi xe ga đi phía trước, cùng chiều, có đeo một túi giả da màu hồng phía trước ngực (sau này Trần Văn H biết tên là chị Ph).Trần Văn H nảy sinh ý định giật chiếc túi này đã bảo Nguyễn Văn H và đi xe áp sát xe chị Ph, Nguyễn Văn H ngồi sau giật mạnh chiếc túi, Trần Văn H rồ ga chạy thẳng đến Khu công nghiệp Tân Liên thì Trần Văn H và Nguyễn Văn H dừng xe, kiểm tra tài sản trong túi rồi lấy 300.000đ tiền mặt; 01 điện thoại Sony C3, 01 đồng hồ Longgines đeo tay màu vàng, 01 chiếc dây chuyền mỹ ký, 01 hộp phấn hiệu Naris màu trắng, 01 thỏi son vỏ hồng còn lại 01 đăng ký xe mô tô, 01 tai nghe điện thoại, 01 thẻ bảo hiểm xe mô tô, 02 thẻ ATM mang tên Vũ Thị Ph thì Nguyễn Văn H đáp xuống cống nước trong Khu công nghiệp. Số tiền 300.000đ Trần Văn H và Nguyễn Văn H đã tiêu xài hết.

Người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt không có yêu cầu gì.

Tại lời nói sau cùng các bị cáo đã trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Về pháp luật áp dụng: Điều 136 BLHS 1999 và điều 171 Bộ luật hình sự 2015 có hình phạt bằng nhau nhưng Điều 171 quy định thêm tình tiết tăng nặng định khung mới. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội về thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 thì áp dụng BLHS 1999 để xét xử đối với hành vi cướp giật tài sản xảy ra trước 00 giờ 00 phút, ngày 01-01-2018.

2.Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Bảo, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Bảo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bị hại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

3. Lời khai nhận tội của các bị cáo là hoàn toàn rõ ràng, phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ đã đủ cơ sở xác định: Hồi 19 giờ 30 phút, ngày 10-9-2017 Trần Văn H điều khiển xe mô tô Novo LX màu trắng vàng biển kiểm soát 15K1-003.15 chở Nguyễn Văn H ngồi phía sau, công khai, nhanh chóng chiếm đoạt một số tài sản trị giá 2.200.000đồng và một số giấy tờ tùy thân của chị Vũ Thị Ph khi chị Ph đang điều khiển xe mô tô rồi tẩu thoát.

Như vậy đã đủ cơ sở kết luận Trần Văn H, Nguyễn Văn H phạm tội Cướp giật tài sản, vi phạm điểm d khoản 2 Điều 136 BLHS 1999.

4. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự, trị an - xã hội. Do đó, cần phải xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

5. Về vai trò: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, Trần Văn H là người giữ vai trò chính bởi Trần Văn H là người nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản bảo với Nguyễn Văn H, Trần Văn H điều khiển xe áp sát chị Ph để Nguyễn Văn H giật tài sản, chủ động phóng xe tẩu thoát, Nguyễn Văn H giữ vai trò người thực hành tích cực.

Xét về nhân thân: Đối với Trần Văn H là người có 1 tiền sự: Ngày 20-9-2016 Công an huyện Vĩnh Bảo xử phạt hành chính về hành vi cố ý gây thương tích chưa được xóa; nhân thân: Ngày 23-6-2016 Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương tuyên miễn trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy đã được xóa. Nguyễn Văn H: Năm 2013 Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Bảo ra Quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 2 năm kể từ ngày 18-3-2013, đã được xóa. Trần Văn H, Nguyễn Văn H đều khai báo thành khẩn; tự nguyện bồi thường thiệt hại; được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; sau khi phạm tội Nguyễn Văn H đến Công an huyện Vĩnh Bảo đầu thú, Trần Văn H đến Công an huyện Vĩnh Bảo tự thú. Đây là các tình tiết giảm nhẹ mà Trần Văn H và Nguyễn Văn H được hưởng quy định tại các điểm b, g, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 BLHS. Trần Văn H được hưởng thêm điểm 0 khoản1 Điều 46 BLHS. Trần Văn H và Nguyễn Văn H là người có nhân thân xấu cần cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

6. Về hình phạt bổ sung: Trần Văn H và Nguyễn Văn H có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thu nhập thấp nên không phạt bổ sung là phạt tiền đối với Trần Văn H và Nguyễn Văn H.

7. Về dân sự: Chị Vũ Thị Ph đã được gia đình Trần Văn H và Nguyễn Văn H bồi thường số tài sản và phí làm lại giấy tờ tùy thân là 4.000.000đồng. Nay chị Ph không còn yêu cầu gì nên không giải quyết.

Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Vĩnh Bảo có thu giữ 01 chiếc mô tô nhãn hiệu Novou LX màu trắng vàng biển kiểm soát 15K1-003.15; 01 điện thoại Sony C3 màu trắng; 01 đồng hồ đeo tay nữ màu vàng; 01 hộp phấn hiệu Naris màu trắng; 01 con dao nhọn dài 32cm. Quá trình điều tra cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Vĩnh Bảo đã trả chiếc xe mô tô nhãn hiệu Novou LX màu trắng vàng biển kiểm soát 15K1- 003.15 cho chị Nguyễn Thị Hải Y là chủ sở hữu hợp pháp, khi chị Y cho H mượn chị Y không biết H đã dùng xe vào việc phạm tội. Trả 01 điện thoại Sony C3 màu trắng; 01 đồng hồ đeo tay nữ màu vàng; 01 hộp phấn hiệu Naris màu trắng cho chị Vũ Thị Ph là đúng quy định của pháp luật. Con dao dài 32cm, không còn giá trị, Nguyễn Văn H tự nguyện không nhận lại cần tịch thu tiêu hủy.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì.

Về án phí: Trần Văn H và Nguyễn Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Trần Văn H và Nguyễn Văn H đồng phạm tội Cướp giật tài sản.

2. Về hình phạt:

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 136, điểm b, g, o, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS xử phạt Trần Văn H 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 12-9-2017.

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 136, điểm b, g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS xử phạt Nguyễn Văn H 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 13-9-2017.

3. Vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, xử tịch thu tiêu hủy 01 con dao nhọn. Vật chứng có đặc điểm như biên bản bàn giao giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Bảo và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 6, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Trần Văn H và Nguyễn Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2018/HSST ngày 29-01-2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:04/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về