Bản án 04/2018/HS-ST ngày 19/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 04/2018/HS-ST NGÀY 19/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 01 năm 2018, tại nhà văn hóa thôn 5, thị trấn Lai Cách, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 05/2018/TLST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2018/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Văn T, sinh năm 1990. ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn PB, xã CP, huyện CG, tỉnh HD. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: 6/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con «ng Phạm Văn Đ và bà Đào Thị M1. Có vợ và 02 con. Tiền án: Tại Bản án số 40/2014/HSST ngày 21/10/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/4/2016). Tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 27/11/2017 đến ngày 28/11/2017 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Kim Chi, Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt.

* Người làm chứng: Ông Nguyễn Bá M, sinh năm 1959. Trú quán: Thôn Đ, thị trấn LC, CG, HD. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy và cần ma túy để sử dụng nên sáng ngày 27/11/2017, Phạm Văn T đi xe bus đến khu vực bờ sông Sặt thuộc thị trấn Kẻ Sặt, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương mua của một người đàn ông (không biết họ tên, địa chỉ) 01 gói ma túy loại Heroin với số tiền 100.000đ. T đi bộ đến khu vực cánh đồng (không xác định được địa chỉ) và sử dụng một phần ma túy mua được, phần còn lại thì cất giấu trong người để bán cho người khác kiếm lời. Khoảng 13 giờ 10 phút cùng ngày, T đi bộ trong thôn Lê Xá, xã Cẩm Phúc, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương thì gặp đối tượng tự khai tên Nguyễn Xuân M- sinh năm 1988 ở thôn Thu Lãng, xã Ngọc Liên, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. M hỏi mua ma túy của T. T đồng ý bán gói ma túy cho M với số tiền 100.000đ. T cầm gói ma túy đi ra để ở một gốc cây gần đó rồi quay về nhận của M 100.000đ và chỉ cho M chỗ để ma túy. Khi M vừa cầm gói ma túy thì bị lực lượng Công an bắt quả tang và thu giữ trong lòng bàn tay phải của M 01 gói giấy bạc màu vàng kích thước (0.5 x 01)cm, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng; thu giữ trong lòng bàn tay phải của T 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 100.000đ.

Tại kết luận giám định số 26/KLGĐ-PC54 ngày 28/11/2017, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất bột dạng cục màu trắng thu của Nguyễn Xuân M có trọng lượng là 0.034 gam, là loại Heroin.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Phạm Văn T khai nhận do cần tiền tiêu sài cá nhân nên T đã thực hiện hành vi bán 01 gói Heroin cho Nguyễn Xuân M như đã nêu trên.

Tại Cáo trạng số 06/VKS-HS ngày 31/12/2017, VKSND huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương truy tố Phạm Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ Luật Hình  sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sau đây viết tắt là BLHS năm 1999).

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Tuyên bố Phạm Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 33 BLHS năm 1999. Xử phạt Phạm Văn T từ 27 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 27/11/2017. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 100.000đ. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng đó. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 10 phút ngày 27/11/2017, tại thôn Lê Xá, xã Cẩm Phúc, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, Phạm Văn T có hành vi bán trái phép 0.034 gam Heroin cho Nguyễn Xuân M thì bị phát hiện bắt quả tang.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về việc trao đổi các chất ma túy. Bị cáo là người có năng lực TNHS, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn hưởng lợi nên vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo được thực hiện bằng việc dùng ma túy mà mình mua được để bán cho người khác lấy tiền lời. Lượng ma túy bị cáo bán trái phép là 0.034 gam Heroin; Heroin nằm trong Danh mục I, số thứ tự 20 Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999. Vì vậy VKSND huyện Cẩm Giàng truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và xử lý đối với bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện vào ngày 27/11/2017 nên HĐXX sẽ áp dụng các quy định của BLHS năm 1999 khi xét xử và quyết định hình phạt đối với bị cáo theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.

Theo Bản án số 40/2014/HSST ngày 21/10/2014, Phạm Văn T bị TAND huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và chưa được xóa án tích đối với lần bị kết án này, nay lại phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS là “Tái phạm” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999. HĐXX sẽ xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS để quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất và mức độ hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Xét hành vi phạm tội của bị cáo còn là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác gây mất trật tự an toàn xã hội; bản thân bị cáo đã từng chấp hành hình phạt tù nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân nên đòi hỏi pháp luật phải xử lý nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

Đối tượng mua ma túy của T khai tên Nguyễn Xuân M đã lợi dụng sơ hở trong quá trình làm việc và bỏ trốn. Cơ quan điều tra đã xác minh tại địa chỉ M khai nhưng không xác định được nên không có căn cứ xử lý. Không xác định được đối tượng bán ma túy cho T và hành vi được thực hiện tại địa bàn huyện

Bình Giang nên Công an huyện Cẩm Giàng đã có công văn trao đổi thông tin đến Công an huyện Bình Giang để điều tra theo thẩm quyền.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có tài sản, không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Số tiền 100.000đ là tiền do bị cáo bán ma túy mà có nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[6] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.

Xử phạt Phạm Văn T 27 (hai mươi bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 27/11/2017.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng).

Số vật chứng trên có tình trạng và đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05/01/2018 giữa Công an huyện Cẩm Giàng và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm Giàng.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc Hội. Buộc Phạm Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (19/01/2018)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2018/HS-ST ngày 19/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Giàng - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về